A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ Tăng tương phản Giảm tương phản

Đồng Văn, sau 10 năm triển khai Nghị quyết 33 -NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI)

Sau 10 năm triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước ở huyện Đồng Văn đã đạt nhiều kết quả tích cực, công tác tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng được tiến hành đồng bộ, ý thức của đảng viên và quần chúng nhân dân được nâng lên. Môi trường văn hóa được cải thiện, thiết chế văn hóa được quan tâm đầu tư gắn với trương trình xây dựng nông thôn mới.

Ngay sau khi Nghị quyết số 33 và Chương trình số 117-CT/TU được ban hành, các cấp, ngành, địa phương đã chủ động triển khai thực hiện và được Nhân dân tích cực hưởng ứng. Công tác phổ biến, quán triệt Nghị quyết số 33 được các cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức thiết thực, hiệu quả. Công tác tuyên truyền đã góp phần nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, cán bộ đảng viên và nhân dân về mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong Nghị quyết số 33 của Đảng.

Hội thi tuyên truyền, xóa bỏ hủ tục lạc hậu ở xã Sà Phìn

Việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trên địa bàn huyện đạt được những kết quả bước đầu, phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” đạt những kết quả nhất định, tỷ lệ người dân tập luyện thể dục thể thao thường xuyên đến năm 2023 tăng lên khoảng 26%, số gia đình thể thao đạt khoảng 16%; 100% số trường học trên địa bàn huyện đảm bảo việc thực hiện giáo dục thể chất; có nhiều câu lạc bộ thể dục thể thao như cầu lông, bóng chuyền, quần vợt, thể dục thẩm mỹ,…được hình thành, tạo điều kiện cho mọi người tham gia tập luyện thể dục thể thao.

Vấn đề xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh được các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương quan tâm, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên; đẩy mạnh triển khai có hiệu quả Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" và Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”... ; việc xây dựng gia đình văn hóa, số lượng gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa không ngừng tăng lên, đến nay có 90% gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa; 70% thôn, bản, khu phố đạt danh hiệu văn hóa; có 20% số xã trở lên, đạt tiêu chí văn hoá nông thôn mới; 100% thôn, bản có đội văn nghệ quần chúng. Các thiết chế văn hóa được quan tâm đầu tư xây dựng nhằm tạo không gian sinh hoạt văn hóa, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Công tác đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao được đẩy mạnh với 80% thôn, khu phố có nhà văn hóa - khu thể thao.

Công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích văn hóa, lịch sử trên địa bàn huyện được quan tâm, nhất là việc huy động nguồn lực tham gia của xã hội. Đến nay trên địa bàn huyện đã có 08 điểm du lịch, 16 di tích, di sản văn hóa (trong đó 04 di tích cấp quốc gia, 08 di tích cấp tỉnh và các di sản văn hóa phi vật thể) được xếp hạng công nhận; 25 cụm di sản địa chất. Hằng năm duy trì tổ chức Lễ hội Gầu tào dân tộc Mông; Hội xuân khèn Mông; Lễ cúng thần rừng dân tộc Pu Péo, Lễ cúng tổ tiên của dân tộc Lô Lô, ... Các làng điệu dân gian, các trò chơi dân gian, các môn thể thao truyền thống...

Công tác quản lý nhà nước về văn hóa luôn được chú trọng, triển khai toàn diện và hiệu quả nhằm đảm bảo mọi hoạt động văn hóa phát triển phù hợp với định hướng của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các quy định pháp luật về hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa; ban hành nhiều văn bản quản lý nhà nước về văn hóa. Quản lý tốt các hoạt động và dịch vụ văn hoá; có kế hoạch bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ chuyên môn và ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ quản lý văn hoá; làm tốt việc đánh giá chất lượng về nội dung và nghệ thuật khi công bố, giới thiệu, truyền bá các sản phẩm văn hoá từ nước ngoài; có giải pháp kỹ thuật để ngăn chặn sự xâm nhập của các sản phẩm văn hoá độc hại qua mạng Internet, các thiết bị kỹ thuật số; thường xuyên kiểm tra công tác quản lý việc nhập khẩu, kiểm soát, thẩm định, ngăn chặn và xử lý kịp thời các sản phẩm văn hoá độc hại. 

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Nghị quyết số 33 vẫn còn một số hạn chế, tồn tại như: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp thực hiện của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, các hội, đoàn thể trong việc tuyên truyền thực hiện Nghị quyết, Chương trình có nơi chưa được thường xuyên và kịp thời, đặc biệt là ở cơ sở. Công tác tổ chức các hoạt động tuyên truyền theo chuyên đề trên lĩnh vực văn hóa chưa thực hiện. Nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực văn hóa còn hạn chế, các thiết chế văn hóa còn ở quy mô nhỏ; ngân sách đầu tư hằng năm cho sự nghiệp văn hóa còn ít, chưa đáp ứng nhu cầu để tổ chức tốt các hoạt động vui chơi giải trí, hưởng thụ văn hóa của Nhân dân.  Một số hiện tượng mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội chưa hoàn toàn được đẩy lùi, ý thức bảo vệ môi trường của một bộ phận Nhân dân còn hạn chế.

Để phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thời gian tới, huyện Đồng Văn sẽ tập trung vào các giải pháp:

Thứ nhất, tập trung chăm lo xây dựng con người phát triển toàn diện về thể lực và trí lực; tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm khơi dậy mạnh mẽ lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với quê hương đất nước, với xã hội trong Nhân dân, nhất là thanh niên... bồi dưỡng nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. 

Thứ hai, đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức; chú trọng nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân. Gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh gắn với triển khai Luật thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội.

Thứ ba, chú trọng công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, văn hóa các vùng miền để làm giàu văn hóa địa phương. Quan tâm đầu tư nguồn lực để bảo tồn và phát triển các loại hình văn học nghệ thuật dân gian, chú trọng giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của địa phương như: Lễ hội Gầu tào, khèn Mông, Lễ cúng thần rừng... Phát hiện và tạo mọi điều kiện để những người có năng khiếu, tài năng trẻ trên lĩnh vực văn học nghệ thuật được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, tham gia vào lĩnh vực sáng tác và biểu diễn.

Thứ tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa, thể thao, du lịch. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi để thu hút đầu tư, xây dựng, phát triển thị trường văn hóa và công nghiệp văn hóa. Tiếp tục đầu tư phát triển các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống để xây dựng, quảng bá thương hiệu các sản phẩm văn hóa phục vụ du lịch, dịch vụ gắn với thị trường văn hóa trong và ngoài nước.

Lương Nghĩa (BTGTU)        


Thống kê truy cập
Hôm nay : 138
Hôm qua : 4.744
Tháng 04 : 106.803
Năm 2024 : 295.143