Những hoạt động và cống hiến của đồng chí Nguyễn Hữu Tiến cho Đảng và cách mạng Việt Nam
BTGDV - Tóm tắt: Nguyễn Hữu Tiến sinh năm 1901 tại huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nguyễn Hữu Tiến là một trong những đảng viên cộng sản đầu tiên của tỉnh Hà Nam và tham gia thành lập Tỉnh ủy Hà Nam lâm thời. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Nguyễn Hữu Tiến được giao giữ nhiều cương vị quan trọng trong Tỉnh ủy Hà Nam, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, Xứ ủy Nam Kỳ. Nguyễn Hữu Tiến nhiều lần bị địch bắt giam tù đày nhưng luôn nêu cao khí phách kiên cường bất khuất trước kẻ thù. Nguyễn Hữu Tiến hy sinh ngày 28-8-1941.
Từ khóa: Nguyễn Hữu Tiến; hoạt động và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng
Nguyễn Hữu Tiến, tên khai sinh Trương Xuân Chinh1 (bí danh: Huế Lâm, Anh Hai Bắc Kỳ, Anh Hai kỹ sư, ông Hai họa sĩ, thầy giáo Hai...), sinh ngày 5-3-1901 tại làng Lũng Xuyên, tổng Yên Khê, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, (nay là tổ dân phố Lũng Xuyên, phường Yên Bắc, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) trong một gia đình nhà Nho yêu nước. Thời niên thiếu, Nguyễn Hữu Tiến theo cha là Nguyễn Hữu Lập ra Kiến An (Hải Phòng), học tại Trường tiểu học Pháp - Việt. Trong thời gian học tập tại trường, Nguyễn Hữu Tiến được các thầy giáo có tư tưởng tiến bộ truyền bá về tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước qua những tấm gương tiêu biểu là Phan Bội Châu và các sĩ phu tiến bộ của tổ chức Đông Kinh Nghĩa Thục như: Lương Văn Can, Nguyễn Quyền,... Quá trình học tập, tìm hiểu và trực tiếp chứng kiến cuộc sống lầm than của những người dân mất nước đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Hữu Tiến, hình thành tư tưởng yêu nước, chí hướng làm cách mạng chống ách áp bức của chế độ thực dân, phong kiến.
Năm 1924, Nguyễn Hữu Tiến trở về quê nhà ở Duy Tiên, Hà Nam làm nghề dạy học. Cùng với dạy kiến thức, Nguyễn Hữu Tiến đã tuyên truyền lòng yêu nước và ý chí đấu tranh giành độc lập cho các học trò và nhiều thanh niên trong vùng. Trong những năm 1925-1926, phong trào đấu tranh sôi sục trong cả nước đòi chính quyền thực dân trả tự do cho Phan Bội Châu và để tang Phan Châu Trinh càng có tác động sâu sắc đến tinh thần yêu nước của Nguyễn Hữu Tiến. Bước ngoặt đầu tiên trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Hữu Tiến là được Trần Tử Yến (còn gọi là giáo Việt), sinh viên trường Cao đẳng Thương mại Đông Dương (Hà Nội), hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên giác ngộ và giới thiệu cho tổ chức kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tháng 11-1925, Nguyễn Hữu Tiến đi dự buổi xử án nhà yêu nước Phan Bội Châu tại Hội đồng Đại hình Hà Nội, cùng với nhiều người dự phiên tòa, hô khẩu hiệu phản đối tòa án thực dân, sự đấu tranh tại phiên tòa với phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu lan rộng khắp cả nước đã buộc chính quyền thực dân phải hạ mức án của Phan Bội Châu từ “chung thân khổ sai” xuống mức án “quản thúc tại gia”. Năm 1926, Nguyễn Hữu Tiến vận động một số thanh niên, học sinh tiến bộ ở huyện Duy Tiên mang theo bức trướng “Tinh thần bất tử” đi dự lễ truy điệu Phan Chu Trinh ở nghĩa trang Bắc Tế, thành phố Nam Định. Khi trở về quê, Nguyễn Hữu Tiến tích cực tuyên truyền, khích lệ tinh thần yêu nước trong nhân dân bằng nhiều hình thức, sáng tác thơ ca, khẳng định trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước, tạo dựng chí hướng yêu nước cho thanh niên, học sinh.
Đầu năm 1927, tại đình Lũng Xuyên, tổng Yên Khê, Nguyễn Hữu Tiến cùng với Trần Tử Yến và Vũ Hưng (tức Uyển), tổ chức thành lập Chi hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, do Nguyễn Hữu Tiến làm Bí thư, đây là Chi hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên ở tỉnh Hà Nam. Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Hữu Tiến, Chi hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên huyện Duy Tiên đã tổ chức nhiều hình thức hoạt động phong phú, phân hóa, cô lập những tên hào lý của chính quyền thực dân, phong kiến; tích cực tuyên truyền, giáo dục những người có khuynh hướng tiến bộ, tạo điều kiện cho các cơ sở cách mạng hoạt động được dễ dàng. Đồng thời, vận động nhân dân xóa bỏ những hủ tục lạc hậu trong làng như “khao vọng”, “mê tín dị đoan”... được đông đảo quần chúng đồng tình ủng hộ. Nguyễn Hữu Tiến còn chỉ đạo thành lập nhiều tổ chức quần chúng như: Hội Tương tế, Hội Phụ nữ, Hội hiếu, hỉ, Hội bóng đá,... qua hoạt động của các hội đoàn thể để tập hợp quần chúng và tuyên truyền tư tưởng yêu nước, cách mạng.
Trước sự phát triển, lớn mạnh của phong trào cách mạng trong nước, đòi hỏi cách mạng Việt Nam phải có sự lãnh đạo thống nhất của một chính đảng cộng sản. Nắm bắt được yêu cầu đó, cuối tháng 3-1929, tại số nhà 5D Hàm Long, Hà Nội, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kỳ tổ chức Hội nghị và tuyên bố thành lập Chi bộ cộng sản (đây là chi bộ cộng sản đầu tiên trong cả nước), chuẩn bị tiến tới thành lập một chính đảng mác xít ở Việt Nam.
Tháng 5-1929, tại Hồng Kông (Trung Quốc), Đại hội I của Tổng Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được tổ chức. Đại hội không đồng ý với đề nghị của Kỳ hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kỳ về việc thành lập đảng cộng sản, nên đoàn đại biểu Kỳ hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kỳ đã thoát ly Đại hội, trở về nước. Ngày 16-6-1929, tại số nhà 312 phố Khâm Thiên, Hà Nội, những người lãnh đạo của Kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên Bắc kỳ đã tổ chức Hội nghị quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Tháng 11-1929, Chi hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên huyện Duy Tiên do Nguyễn Hữu Tiến làm Bí thư đã được công nhận là Chi bộ của Đông Dương Cộng sản Đảng. Nguyễn Hữu Tiến cùng với 6 đảng viên: Nguyễn Doãn Chấp, Vũ Văn Uyển (Vũ Uyển), Nguyễn Hữu Trạc, Phạm Văn Tô, Phạm Văn Bình trở thành những đảng viên đầu tiên của Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng của huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
Tháng 9-1930, Tỉnh ủy lâm thời Hà Nam được thành lập, gồm 3 đồng chí: Lê Công Thanh, Nguyễn Duy Huân và Nguyễn Hữu Tiến, do Lê Công Thanh làm Bí thư; Nguyễn Hữu Tiến được phân công phụ trách công tác tuyên huấn. Tỉnh ủy quyết định lập cơ sở in và ra tờ báo của Đảng bộ Hà Nam, lấy tên là báo Dân cày; cơ sở in đặt ngay tại nhà Nguyễn Hữu Tiến để thuận tiện in ấn và phân phát tài liệu tuyên truyền. Nguyễn Hữu Tiến viết nhiều bài báo có nội dung tố cáo, đả phá những thói hư tật xấu, tệ tham nhũng của bọn hương lý, kỳ hào; tuyên truyền lòng yêu nước, giáo dục quần chúng chống thực dân, phong kiến... Báo Dân cày và nhiều truyền đơn, khẩu hiệu đã được in, cất giấu và phát hành bí mật phục vụ tích cực cho công tác tuyên truyền, phát triển tổ chức, cơ sở đảng của Tỉnh ủy Hà Nam.
Đầu năm 1930, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành tại bán đảo Cửu Long (Hồng Kông, Trung Quốc). Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã phát động cao trào đấu tranh cách mạng chống chính quyền thực dân, phong kiến, đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh. Hòa chung với phong trào cách mạng trong cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, tháng 9-1930, Nguyễn Hữu Tiến tham gia tổ chức và lãnh đạo cuộc mít tinh tại đền Lảnh (thuộc xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên), gây được tiếng vang lớn, tập hợp đông đảo quần chúng tham gia. Cuộc mít tinh đã biến thành cuộc tuần hành rầm rộ, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân trong tỉnh Hà Nam lên một bước mới, thanh thế cách mạng ngày càng sâu rộng. Trước sự phát triển của phong trào cách mạng tại địa phương, tháng 1-1931, Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam họp tại thôn Lũng Xuyên, huyện Duy Tiên, bầu ban lãnh đạo Tỉnh ủy chính thức, gồm 7 thành viên, trong đó có Nguyễn Hữu Tiến. Nguyễn Hữu Tiến được phân công phụ trách công tác tuyên truyền và huấn luyện của đảng bộ; tổ chức in lại những bài viết trên tờ báo Búa Liềm của Trung ương Đảng; cho in và bí mật phát hành cuốn sách Bước đầu của chủ nghĩa cộng sản và xuất bản tờ báo Đỏ của Đảng bộ tỉnh Hà Nam làm tài liệu tuyên truyền.
Những hoạt động cách mạng của Nguyễn Hữu Tiến đã bị cơ quan mật thám Pháp theo dõi gắt gao. Ngày 22-5-1931, Nguyễn Hữu Tiến cùng với Phạm Văn Tô, Nguyễn Duy Huân và một số lãnh đạo các tỉnh Bắc Kỳ họp tại số nhà 165 phố Gia Long, Hà Nội, đã bị sa lưới mật thám. Mật thám Pháp đưa Nguyễn Hữu Tiến đến giam giữ ở nhà lao Nam Định. Tại đây, đồng chí bị tra tấn, hành hạ bằng đủ các thủ đoạn tàn bạo, hết dụ dỗ, mua chuộc, đến những trận đòn roi hiểm ác, nhưng không khai thác được thông tin gì. Sau đó, đồng chí bị chuyển qua các nhà tù khét tiếng như Hỏa Lò (Hà Nội), nhà tù Sơn La, hòng lung lạc, làm nhụt ý chí của người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Hữu Tiến. Tuy nhiên, ý đồ của chúng đã hoàn toàn thất bại, Nguyễn Hữu Tiến đã tỏ rõ tinh thần kiên trung, bất khuất, giữ vững khí tiết của người cộng sản; tích cực tham gia đấu tranh chống lại chế độ hà khắc của chế độ nhà tù, đòi cải thiện đời sống cho các tù nhân; chống đánh đập và bắt làm việc nặng nhọc; đồng thời tranh thủ thời gian học tập, nâng cao trình độ lý luận cách mạng, bồi dưỡng thêm kiến thức văn hóa. Các kỳ báo Lao tù tạp chí, các bài thơ do đồng chí tham gia chấp bút và sáng tác trong thời gian này là những tài liệu quan trọng góp phần cổ vũ, động viên những người tù giữ vững ngọn lửa đấu tranh cách mạng. Không khuất phục được tinh thần, ý chí cách mạng của những người đảng viên cộng sản, ngày 5-12-1933, thực dân Pháp đưa Nguyễn Hữu Tiến và 150 tù chính trị mà chúng cho là “loại cứng đầu”, trong đó có các đồng chí: Lê Duẩn, Nguyễn Duy Huân, Phạm Văn Tô... đày ra nhà tù Côn Đảo - một nơi được coi là “địa ngục trần gian”. Tại Côn Đảo, Nguyễn Hữu Tiến tham gia chi bộ bí mật Banh I, (nơi giam giữ tù chính trị) và được cử vào Ban đại diện tù nhân. Tháng 1-1935, Nguyễn Hữu Tiến được Chi bộ Đảng nhà tù Côn Đảo bố trí cho vượt ngục trở về đất liền hoạt động, nhưng do gió thổi mạnh nên bị lạc hướng, thuyền lại dạt vào đảo và bị địch bắt lại và trừng phạt trong hầm xay lúa, phải chịu nhiều cực hình vì “tội trốn tù”.
Mặc dù bị hành hạ, đánh đập dã man, nhưng Nguyễn Hữu Tiến không hề sợ hãi, mà luôn khát khao thoát khỏi chốn lao tù đế quốc để trở về hoạt động cách mạng. Tháng 4-1935, Nguyễn Hữu Tiến cùng Tống Văn Trân, Phạm Hồng Thái, Tạ Uyên, Nguyễn Văn Trọng, Phạm Văn Thắm, Trần Quang Tặng được Chi bộ Đảng nhà tù Côn Đảo bố trí, tổ chức vượt ngục lần thứ 2. Cuộc vượt ngục thành công, đoàn vượt ngục đã cập bến Vĩnh Châu (khi đó thuộc tỉnh Bạc Liêu) an toàn. Nguyễn Hữu Tiến được tổ chức phân công “đóng vai thầy giáo”, đến dạy học ở ấp Long Điền, tỉnh Long Xuyên, (nay thuộc tỉnh An Giang), chờ một thời gian, để khi bắt được liên lạc sẽ chuyển đến địa bàn hoạt động mới. Sau khi chắp nối được với cơ sở đảng, Nguyễn Hữu Tiến được phân công về hoạt động ở Liên Tỉnh ủy Long - Châu - Rạch - Hà (Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên), thuộc Đảng bộ miền Tây Nam Kỳ với bí danh Huế Lâm, phụ trách công tác tuyên huấn.
Để che mắt kẻ thù và thuận lợi cho hoạt động, Nguyễn Hữu Tiến đã cho lập ra một hiệu thuốc Bắc và một xưởng mộc (ở Long Xuyên), làm địa điểm liên lạc giữa Liên Tỉnh ủy với các cơ sở cách mạng trên địa bàn. Thời gian này ở Pháp, Mặt trận Bình dân Pháp thắng thế, thành lập chính phủ và cử đoàn đại biểu sang Đông Dương. Hưởng ứng Phong trào Đông Dương đại hội (do Đảng chỉ đạo), Nguyễn Hữu Tiến chỉ đạo các cơ sở đảng khắp các địa phương thuộc Liên Tỉnh ủy miền Tây Nam Kỳ... lập các Ủy ban hành động nhằm tập hợp ý kiến, nguyện vọng bức thiết của nhân dân, kiến nghị với Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp; tổ chức diễn thuyết vạch trần chế độ cai trị của thực dân Pháp; hướng dẫn nhân dân phương pháp chống sưu cao, thuế nặng, chống các chính sách áp bức, hà khắc của thực dân, phong kiến; tổ chức thư viện đọc sách, báo và nhóm đọc sách, báo lưu động để tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng đến với nhân dân. Tính đến đầu tháng 8-1936, tại địa bàn Tây Nam Kỳ, đã thành lập được trên 100 Ủy ban hành động. Trên cương vị phụ trách công tác tuyên truyền, thông qua các Ủy ban hành động, Nguyễn Hữu Tiến chỉ đạo “chép lại” và in bức thư ngỏ thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương để tuyên truyền rộng rãi tới các đảng phái, các hội ái hữu, các tầng lớp công, nông, binh, phụ nữ, sinh viên, giới báo chí, giới thương gia trong toàn xứ Đông Dương.
Đầu năm 1937 (với bí danh Huế Tiến), Nguyễn Hữu Tiến được Liên Tỉnh ủy Long - Châu - Rạch - Hà điều về hoạt động tại huyện Chợ Mới (Long Xuyên, An Giang), nơi có phong trào cách mạng phát triển mạnh, để tiếp tục xây dựng, mở rộng hệ thống cơ sở cách mạng. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Nguyễn Hữu Tiến, nhiều cuộc mít tinh, tuyên truyền, vận động nhân dân đấu tranh của nhân dân Chợ Mới đã nổ ra dưới nhiều hình thức và nội dung phong phú: đấu tranh công khai, hợp pháp; nửa hợp pháp; nội dung đấu tranh đòi tự do dân chủ, cơm áo, hòa bình. Qua đó, tập hợp lực lượng, phát triển tổ chức làm cho nhân dân tin tưởng, tham gia cách mạng.
Khi chiến tranh thế giới II bùng nổ (9-1939), Nguyễn Hữu Tiến được cử làm Bí thư Liên Tỉnh ủy Long Xuyên gồm các tỉnh: Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Rạch Giá, Sa Đéc (nay thuộc các tỉnh An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu). Tháng 3-1940, Nguyễn Hữu Tiến được điều về hoạt động tại cơ quan Xứ ủy Nam Kỳ, là Xứ ủy viên, Thành ủy viên Thành ủy Sài Gòn - Gia Định với bí danh “Hai kỹ sư”, phụ trách cơ quan ấn loát của Đảng, chỉ đạo in ấn nhiều tài liệu quan trọng và có nhiều đóng góp cho công tác tuyên truyền của Xứ ủy Nam Kỳ và Thành ủy Sài Gòn - Gia Định. Ngoài ra, Nguyễn Hữu Tiến với tên mới là Trương Xuân Chinh, trực tiếp tham gia làm báo Dân chúng và có nhiều bài báo tuyên truyền về phong trào cách mạng Nam Kỳ.
Nhiều ý kiến và nhân chứng lịch sử cho rằng, chính trong thời gian này, Nguyễn Hữu Tiến được Xứ ủy Nam Kỳ trao nhiệm vụ vẽ cờ hiệu để sử dụng trong các cuộc đấu tranh cách mạng ở Nam Kỳ. Nguyễn Hữu Tiến đã vẽ lá cờ có nền đỏ và ngôi sao vàng năm cánh, thể hiện ý tưởng máu đỏ da vàng, tượng trưng cho dân tộc và sự đoàn kết các tầng lớp nhân dân bao gồm sỹ, nông, công, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Mẫu cờ đã được Xứ ủy Nam Kỳ nhất trí và đã xuất hiện lần đầu tiên trong Khởi nghĩa Nam Kỳ (ngày 23-11-1940). Tâm huyết của Nguyễn Hữu Tiến được thể hiện rõ khi sáng tạo ra lá cờ và được khắc họa rõ nét trong bài thơ của đồng chí:
“... Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi, da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ - nông - công - thương - binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh…”2
Những ngày trong nhà giam dành cho những tù nhân chịu “án tử hình” của thực dân Pháp, Nguyễn Hữu Tiến vẫn thể hiện rõ tinh thần lạc quan cách mạng: tập thể dục đều đặn, mượn sách, báo về đọc, nghiên cứu, kể chuyện, dạy văn hóa và lý luận cách mạng cho một số bạn tù như: Nguyễn Văn Cung (tức Ba Cung, Ba Xê, là cán bộ Xứ ủy Nam Kỳ)... Trước lúc ra pháp trường, Nguyễn Hữu Tiến còn nhắn nhủ lại anh em, đồng chí bằng những lời thơ đầy xúc động và tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cách mạng. Những vần thơ da diết ấy đã in sâu trong tâm trí những người đồng chí, đồng đội cho đến tận mãi sau này:
“Từ biệt hôm nay có mấy lời
Gửi cùng đồng chí khắp nơi nơi
Tinh thần gửi lại cho non nước
Thù hận ghi sâu khắp đất trời
Án chém Hà Nam đã rũ sạch
Khổ sai Côn Đảo đã qua rồi
Anh em đi trọn con đường nhé
Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai"3
Tuy nhiên, Nguyễn Hữu Tiến đã không kịp nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong Khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940). Bởi vì, trước ngày nổ ra Khởi nghĩa Nam Kỳ, tối 30-7-1940, Nguyễn Hữu Tiến cùng Nguyễn Thị Minh Khai, Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn đến làm việc tại một cơ sở cách mạng ở làng Chà Và (giáp nội thị Sài Gòn), đã bị sa lưới mật thám Pháp4. Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại và bị chính quyền thực dân đàn áp đẫm máu. Ngày 17-5-1941, thực dân Pháp mở phiên tòa “xét xử và kết án tử hình” đối với Nguyễn Hữu Tiến và một số lãnh đạo khác của Đảng về tội: “chịu trách nhiệm tinh thần đối với cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ; xúi giục dân chúng làm rối loạn quốc gia”.
Ngày 28-8-1941, Nguyễn Hữu Tiến ngã xuống tại trường bắn ở Ngã tư Giếng nước, Hóc Môn, Gia Định (nay là Trung tâm y tế huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh) cùng với Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần (tức Biện Tần), Nguyễn Thị Minh Khai (tức Cô Duy), Nguyễn Văn Tây và Nguyễn Văn Huân. Trước khi hy sinh, các đồng chí đã hô vang khẩu hiệu: “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm! Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm!”.
Với 40 tuổi đời, hơn 15 năm liên tục hoạt động cống hiến cho Đảng và cách mạng Việt Nam, tên tuổi của Nguyễn Hữu Tiến đã trở thành tượng đài bất tử và mãi dược khắc ghi trong lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Nguyễn Hữu Tiến và các liệt sĩ đã hy sinh oanh liệt, máu của các liệt sĩ đã tô thắm cho màu cờ cách mạng, lá cờ đỏ sao vàng mà các liệt sĩ chưa bao giờ được nhìn thấy trên thực tế. Tuy nhiên, lá cờ đỏ sao vàng - ý tưởng tâm huyết của nhà cách mạng Nguyễn Hữu Tiến đã hiên ngang tung bay trên nền trời Tổ quốc, trở thành cờ hiệu của Mặt trận Việt Minh (5-1941). Ngày 9-11-1946, tại phiên họp Quốc hội khóa I, đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi rõ: “Quốc kỳ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có hình chữ nhật, nền đỏ ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh”5. Ngày 2-7-1976, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ của Việt Nam.
Ngày nhận: 13-5-2025; ngày thẩm định, đánh giá: 20-5-2025; ngày duyệt đăng:2-6-2025
1. Có tài liệu viết là Trương Xuân Trinh
2. Theo Đức Văn - Duy Tuyên, bài đăng trên báo Dân trí, số ra ngày 26-7-2012
3. Bài đăng trên Báo Búa Liềm
4. Theo hồ sơ của mật thám Pháp: “Tối ngày 30-7-1940, các nhân viên theo dõi đã thấy Nguyễn Thị Khai, tự Cô Duy đi cùng với một người đàn ông bản địa đến gần ngôi nhà. Cà hai bị bắt sau một hồi rượt đuổi và có sự kháng cự của người đàn ông. Bị dẫn đến Sở An ninh, người đàn ông đã cắn lưỡi, định tự tử. Qua xác minh cho biết, người đàn ông là Trương Xuân Chinh, tự Nguyễn Hữu Tiến, tự Giáo Hoài, bị tòa Thượng thẩm Hà Nội xử 20 năm khổ sai vào ngày 6-6-1932”. (Nguồn: Công văn số 4685 ngày 2-8-1940 cùa Sở Cảnh sát Nam Kỳ gửi Thống đốc Nam Kỳ về việc bắt giữ Nguyễn Thị Khai, tự Cô Duy, (Hồ sơ ILA45/306(4), phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, lưu tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II)
5. Xem: Lịch sử Quốc hội Việt Nam, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 70.
PGS, TS TRẦN MINH TRƯỞNG, ThS ĐINH THỊ HOÀI
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh