A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ Tăng tương phản Giảm tương phản

Giải pháp phát triển công nghiệp bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc

BTGDV-Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp luôn giữ vai trò then chốt trong việc thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Hiện nay, phát triển công nghiệp theo hướng bền vững đang trở thành yêu cầu cấp thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh kinh tế quốc gia. Bài viết phân tích quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển công nghiệp bền vững; phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát để thực hiện chủ trương này trong kỷ nguyên mới.

 

Vận hành sản xuất điện năng tại Công ty cổ phần Điện lực dầu khí Nhơn Trạch 2 thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam

Ảnh: TTXVN

1. Mở đầu

Tại Việt Nam, khái niệm “Phát triển bền vững” được đặc biệt nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, với quan điểm: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”(1). Để thực hiện thắng lợi các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội XIII của Đảng đề ra, đưa nước ta trở thành một quốc gia phát triển có nền công nghiệp hiện đại và thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI, việc bảo đảm phát triển bền vững nói chung và công nghiệp nói riêng đòi hỏi một quyết tâm chính trị cao độ, cùng với lộ trình và bước đi phù hợp. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và phức tạp, phát triển công nghiệp bền vững không chỉ là mục tiêu nội tại mà còn là yếu tố quan trọng tạo nên sức bật, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

2. Nội dung

2.1. Quan niệm về phát triển công nghiệp bền vững

Phát triển công nghiệp bền vững được định nghĩa là một quá trình sản xuất, kinh doanh ổn định cho doanh nghiệp, bảo đảm mức thu nhập thường xuyên và không bị gián đoạn hay xáo trộn bởi những tác động bất lợi từ bên ngoài. Các ngành công nghiệp phải luôn có sự phát triển liên tục, đóng góp một cách nhất định và có ý nghĩa vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Phát triển công nghiệp bền vững không chỉ là việc duy trì sản lượng hay tăng trưởng kinh tế đơn thuần, mà còn hàm chứa về chất lượng và hiệu quả. Điều này được thể hiện bởi các đặc trưng sau:

Một là, tính liên tục và khả năng chống chịu: Một nền công nghiệp bền vững phải có khả năng duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh ổn định ngay cả khi đối mặt với các cú sốc bên ngoài như dịch bệnh, biến động thị trường toàn cầu, khủng hoảng kinh tế hay thiên tai. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp và ngành công nghiệp phải có sự linh hoạt, khả năng thích ứng cao, và các cơ chế quản trị rủi ro hiệu quả để giảm thiểu tác động tiêu cực và nhanh chóng phục hồi.

Hai là, đóng góp thực chất vào tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu: Phát triển công nghiệp bền vững phải tạo ra những đóng góp hữu hình và có giá trị cao vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước; không chỉ là tăng trưởng về số lượng mà còn là tăng trưởng về chất lượng, thể hiện qua việc tăng cường giá trị gia tăng, giảm thiểu sự phụ thuộc vào các ngành khai thác tài nguyên thô, và thúc đẩy các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo công nghệ cao. Sự chuyển dịch cơ cấu này là minh chứng cho một nền công nghiệp hiện đại và hiệu quả hơn.

Ba là, hài hòa với mục tiêu xã hội và môi trường: khác với quan điểm tăng trưởng “bằng mọi giá”, PTCN bền vững đòi hỏi sự cân bằng giữa hiệu quả kinh tế với trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường. Nó bao gồm việc tạo ra công ăn việc làm ổn định, thu nhập tốt cho người lao động, đảm bảo an toàn lao động và giảm thiểu ô nhiễm môi trường do hoạt động sản xuất gây ra. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần áp dụng các công nghệ sản xuất sạch hơn, quản lý chất thải hiệu quả và tích cực tham gia vào các hoạt động phát triển cộng đồng.

Bốn là, bảo đảm cho các thế hệ tương lai: Phát triển công nghiệp hôm nay không được phép khai thác cạn kiệt tài nguyên, gây ra ô nhiễm để không thể khắc phục hoặc tạo ra gánh nặng môi trường và xã hội cho các thế hệ mai sau. Thay vào đó, nó phải xây dựng nền tảng vững chắc để các thế hệ tương lai tiếp tục phát triển và thịnh vượng, sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả và tái tạo được.

2.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển công nghiệp bền vững

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định một trong ba đột phá chiến lược là hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trong đó nhấn mạnh mô hình tăng trưởng dựa vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Đại hội nêu rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”(2).

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 15 - 11 - 2022 của Bộ Chính trị về phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đã xác định mục tiêu: “Phát triển ngành công nghiệp quốc gia theo hướng hiện đại, thông minh, xanh, bền vững; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”(3).

Đảng ta nhất quán đường lối hội nhập toàn diện nhưng có chọn lọc, gắn kết chặt chẽ giữa hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền công nghiệp tự chủ. Điều này thể hiện rõ trong định hướng phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn như điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu mới... vừa có giá trị gia tăng cao vừa thân thiện với môi trường. Đồng thời, Đảng ta khuyến khích phát triển mô hình khu công nghiệp sinh thái, cụm liên kết ngành, khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi xanh theo chuẩn của môi trường, xã hội và quản trị.

Chủ trương của Đảng ta là phát triển công nghiệp gắn với quy hoạch vùng, hạn chế sự dàn trải, trùng lặp. Đặc biệt, tập trung phát triển công nghiệp theo chuỗi giá trị, ưu tiên các vùng có lợi thế cạnh tranh và năng lực kết nối hạ tầng tốt như vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, cùng với sự nỗ lực của bộ, ngành, địa phương, phát triển công nghiệp bền vững ở Việt Nam thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần quan trọng vào bức tranh tổng thể tăng trưởng GDP của cả nước.

2.3. Thực trạng phát triển công nghiệp bền vững ở Việt Nam

Thành tựu

Trong gần bốn thập kỷ đổi mới, ngành công nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ. Năm 2023, công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực chính, chiếm trên 85% giá trị sản xuất công nghiệp. Tỷ trọng FDI vào ngành công nghiệp chiếm trên 60% tổng FDI cả nước (4). Nhiều doanh nghiệp công nghiệp nội địa đã bắt đầu đầu tư vào công nghệ cao, năng lượng tái tạo, cơ khí chính xác và điện tử - viễn thông, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Cụ thể:

Một là, ngành công nghiệp đã duy trì khả năng thu hút nguồn lực và tốc độ tăng trưởng cao

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, ngành công nghiệp vẫn duy trì được mức tăng trưởng cao, thu hút được nhiều nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư phát triển. Điều này chứng tỏ sức chống chịu và tiềm năng to lớn của công nghiệp Việt Nam trước những biến động khó khăn nội tại và quốc tế.

Hai là, ngành công nghiệp đã hỗ trợ đắc lực cho các ngành kinh tế khác

Ngành công nghiệp đã đóng vai trò hỗ trợ rất lớn cho sự phát triển của nông nghiệp thông qua việc cung cấp máy móc, thiết bị, vật tư nông nghiệp và chế biến nông sản. Đồng thời, công nghiệp cũng là động lực chính thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, góp phần quan trọng vào cán cân thương mại của đất nước, từ đó nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Ba là, ngành công nghiệp đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu

Năng lực cạnh tranh toàn cầu của các ngành công nghiệp Việt Nam đã đạt những bước tiến ấn tượng. Theo Báo cáo năm 2021, một số sản phẩm công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam có quy mô lớn và chiếm vị trí vững chắc trên thị trường thế giới. Đặc biệt, theo Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO), xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp Việt Nam đã tăng từ vị trí 58 vào năm 2015 lên thứ 42 vào năm 2019(5). Sự cải thiện này là minh chứng rõ ràng cho việc phát triển công nghiệp từng bước đi vào chiều sâu, tập trung vào nâng cao chất lượng và hiệu quả.

Bốn là, ngành công nghiệp đã chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực

Quy mô và trình độ kinh tế công nghiệp đã nâng lên đáng kể. Cơ cấu các ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành khai khoáng, ngành thâm dụng tài nguyên và có giá trị gia tăng thấp, tăng nhanh tỷ trọng ngành chế biến, chế tạo, ngành tạo ra giá trị gia tăng cao hơn và có tiềm năng đổi mới sáng tạo. Qua đó, phản ánh sự chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng dựa vào yếu tố đầu vào sang mô hình tăng trưởng dựa vào yếu tố năng suất và đổi mới.

Năm là, ngành công nghiệp đã cải thiện vị thế Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới

Từ một quốc gia kém phát triển, thu nhập bình quân đầu người thấp, Việt Nam đã vươn lên thuộc nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình. Vị thế trên trường quốc tế ngày càng được cải thiện và đánh giá cao, Việt Nam trở thành đối tác và hợp tác tin cậy của nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là kết quả tổng hòa của những nỗ lực phát triển kinh tế, trong đó có vai trò quan trọng của ngành công nghiệp.

Hạn chế

Một là, hiệu quả sản xuất và năng suất lao động còn thấp

Trong những năm qua, công nghiệp Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng, đóng góp đáng kể vào GDP. Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất và năng suất lao động vẫn là một trong những điểm nghẽn lớn, ảnh hưởng đến tính bền vững của ngành. Cụ thể: (1)Tăng trưởng dựa vào chiều rộng, thâm dụng tài nguyên và lao động giá rẻ: tỷ trọng công nghiệp trong GDP, ngành công nghiệp và xây dựng đã đóng góp khoảng 36,9% vào GDP năm 2023(6), cho thấy vai trò chủ chốt trong nền kinh tế. Tuy nhiên, tăng trưởng công nghiệp của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc nhiều vào việc mở rộng quy mô, tăng cường khai thác tài nguyên và sử dụng lao động phổ thông giá rẻ. Điều này dẫn đến hiệu quả sử dụng tài nguyên thấp và tạo ra áp lực lớn lên môi trường. Mặc dù có sự dịch chuyển dần sang các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo công nghệ cao hơn, nhưng tỷ trọng các ngành công nghiệp thâm dụng tài nguyên và năng lượng vẫn còn đáng kể. (2) Năng suất lao động thấp: so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới, năng suất lao động của Việt Nam năm 2023 theo giá hiện hành đạt 188,7 triệu đồng/lao động (tương đương 7.568 USD). So với Xinggapo, năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng khoảng 11,2% (ước tính năm 2023); so với Malaixia bằng 26,7%; so với Thái Lan bằng 37,8%; và so với Indonêxia bằng 48,9%(7). Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, như là, trình độ công nghệ và quản lý chưa cao, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) vẫn còn lạc hậu về công nghệ sản xuất và phương thức quản lý. Chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là lao động có kỹ năng còn hạn chế. Tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trong tổng số lao động năm 2023 chỉ đạt khoảng 26,4%(8), cho thấy sự thiếu hụt lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng mềm và khả năng thích ứng với công nghệ mới là một rào cản lớn.

Hai là, mức độ phát thải và tiêu hao tài nguyên trong ngành công nghiệp còn cao

Đây là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá tính bền vững của công nghiệp và cũng là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Phát thải khí nhà kính và ô nhiễm môi trường, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu và công nghiệp đóng góp đáng kể vào lượng phát thải khí nhà kính. Cụ thể:

(1) Sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch: ngành năng lượng và một số ngành công nghiệp nặng (xi măng, sắt thép, hóa chất) vẫn phụ thuộc chủ yếu vào than đá và các nhiên liệu hóa thạch khác, dẫn đến lượng phát thải CO2 lớn. Việc xây dựng thêm các nhà máy nhiệt điện than trong quá khứ đã làm gia tăng đáng kể lượng khí thải. Nhiệt điện than vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn điện của Việt Nam, khoảng 32,5% vào năm 2023(9). Các nhà máy nhiệt điện than là nguồn phát thải CO2 lớn. Tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam năm 2020 là khoảng 316 triệu tấn CO2(10), trong đó ngành năng lượng và công nghiệp chiếm phần lớn.

(2) Ô nhiễm môi trường: nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp chưa có hệ thống xử lý chất thải đạt chuẩn hoặc chưa được vận hành hiệu quả, dẫn đến ô nhiễm nghiêm trọng không khí (bụi mịn, SOx, NOx), nước (nước thải công nghiệp chưa qua xử lý) và đất (chất thải rắn công nghiệp). Các làng nghề truyền thống cũng đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do quy trình sản xuất lạc hậu và thiếu kiểm soát. Chỉ khoảng 70% các khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung(11).

(3) Tiêu hao tài nguyên thiên nhiên: tăng trưởng công nghiệp nhanh đã gây áp lực lớn lên tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam. Việc sử dụng lãng phí năng lượng, mặc dù giá năng lượng ở Việt Nam tương đối thấp, nhưng điều này lại không khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các giải pháp tiết kiệm năng lượng. Bên cạnh đó, khai thác quá mức tài nguyên khoáng sản, một số ngành công nghiệp khai thác (than, quặng kim loại, cát, đá) vẫn diễn ra với quy mô lớn, gây cạn kiệt tài nguyên và tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên (sạt lở, mất đa dạng sinh học).

Ba là, ngành công nghiệp tạo việc làm chưa bền vững

Việc làm bền vững không chỉ đơn thuần là tạo ra số lượng việc làm, mà còn phải bảo đảm chất lượng, an toàn, thu nhập ổn định và cơ hội phát triển cho người lao động. Tăng trưởng việc làm, nhưng còn nhiều thách thức về chất lượng, ngành công nghiệp đã tạo ra hàng triệu việc làm, góp phần quan trọng vào việc giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng thu nhập cho người dân. Cụ thể: (1) Việc làm phổ thông và thu nhập thấp: phần lớn việc làm trong ngành công nghiệp vẫn là lao động phổ thông, không yêu cầu kỹ năng cao, dẫn đến thu nhập thấp và ít cơ hội thăng tiến. Điều này thể hiện rõ trong các ngành công nghiệp thâm dụng lao động như dệt may, da giày. Thu nhập bình quân của lao động khu vực công nghiệp và xây dựng năm 2023 đạt khoảng 8,5 triệu đồng/người/tháng(12), tuy có tăng nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu. (2) Điều kiện lao động chưa bảo đảm: mặc dù đã có những cải thiện, nhưng tình trạng vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp vẫn còn diễn ra ở một số doanh nghiệp, gây rủi ro cho sức khỏe và tính mạng người lao động. Năm 2022 cả nước xảy ra 7.187 vụ tai nạn lao động làm 595 người chết và 1.466 người bị thương nặng(13), trong đó khu vực sản xuất công nghiệp chiếm tỷ lệ cao. Vấn đề về cường độ lao động cao, làm thêm giờ quá mức cũng là một thách thức. (3) Thiếu hụt kỹ năng cho tương lai: với sự phát triển của khoa học, công nghệ và tự động hóa, nhiều việc làm truyền thống có nguy cơ bị thay thế. Khả năng đào tạo lại và nâng cao kỹ năng cho người lao động để thích ứng với những yêu cầu mới của thị trường lao động còn hạn chế. (4) Vai trò của doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước: Các doanh nghiệp FDI đóng vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm. Tuy nhiên, việc làm trong các doanh nghiệp này chủ yếu vẫn giới hạn ở các khâu lắp ráp, sản xuất đơn giản, ít cơ hội cho lao động Việt Nam tham gia vào các khâu có giá trị gia tăng cao hơn như R&D, thiết kế. Đối với các doanh nghiệp trong nước, khả năng tạo việc làm bền vững còn phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh, khả năng đổi mới và đầu tư vào công nghệ.

Bốn làchưa đủ năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu và yêu cầu hội nhập quốc tế

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, khả năng thích ứng của công nghiệp Việt Nam có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển bền vững. Cụ thể: (1) Thách thức từ biến đổi khí hậu: Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu. Các nhà máy công nghiệp, khu công nghiệp thường nằm ở các vùng ven biển, đồng bằng thấp, dễ bị ảnh hưởng bởi nước biển dâng, bão lũ, hạn hán. (2) Rủi ro thiên tai gia tăng: các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ lụt, hạn hán ngày càng gay gắt, gây thiệt hại nghiêm trọng đến hạ tầng, gián đoạn sản xuất và chuỗi cung ứng. (3) Áp lực chuyển đổi năng lượng: để giảm phát thải, các ngành công nghiệp thâm dụng năng lượng đang phải đối mặt với áp lực lớn từ các cam kết quốc tế về giảm phát thải ròng bằng không (Net Zero) vào năm 2050 của Việt Nam. Điều này đòi hỏi sự chuyển đổi mạnh mẽ sang năng lượng tái tạo và công nghệ sản xuất ít phát thải. (4) Vấn đề về nguồn nước và nguyên liệu: biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đến nguồn cung cấp nước và nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, đặc biệt là các ngành phụ thuộc vào nông nghiệp hoặc tài nguyên nước. (5) Chưa chủ động hội nhập quốc tế: ngành công nghiệp chưa có nhiều chính sách và giải pháp để đạt được những tiêu chuẩn quốc tế đặt ra trong sản xuất, kinh doanh và quản trị công nghiệp.

Năm là, chính sách phát triển công nghiệp còn những điểm nghẽn cần tháo gỡ

Ngành công nghiệp nước ta đang có nhiều điểm nghẽn về chính sách, thể chế, pháp lý để phát triển bền vững. Cụ thể là thể chế và thủ tục hành chính chậm đổi mới cho phát triển Ngành công nghiệp. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực cải cách, nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện, vẫn còn nhiều vướng mắc trong thể chế và thủ tục hành chính, gây cản trở, ách tắc cho sự phát triển của một số lĩnh vực. Sự chồng chéo, thiếu nhất quán hoặc chậm trễ trong việc ban hành và thực thi các quy định pháp luật tạo ra gánh nặng về chi phí và thời gian cho doanh nghiệp, làm giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư.

2.4. Giải pháp phát triển công nghiệp bền vững của Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI, việc khắc phục những hạn chế và thúc đẩy phát triển công nghiệp bền vững đòi hỏi một hệ thống giải pháp đồng bộ, có tầm nhìn chiến lược và khả năng triển khai hiệu quả.

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế để phát triển công nghiệp bền vững

Tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện thể chế là giải pháp có ý nghĩa rất thiết thực để khơi thông những điểm nghẽn, tạo hành lang pháp lý thông thoáng và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư, từ đó thúc đẩy phát triển công nghiệp bền vững. Cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá phát triển công nghiệp bền vững và đưa vào quy hoạch quốc gia. Đồng thời, sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đầu tư theo hướng ưu tiên các dự án công nghệ cao, ít phát thải. Tăng cường các chính sách ưu đãi thuế, đất đai, tín dụng xanh cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất sạch, năng lượng tái tạo và mô hình kinh tế tuần hoàn. Cụ thể: (1) Tối ưu hóa thủ tục hành chính: mặc dù Nhà nước đã cắt giảm thủ tục hành chính, khâu trung gian không cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho công nghiệp phát triển nhanh và bền vững, song trong quá trình tổ chức thực hiện còn nhiều vướng mắc, gây cản trở và ách tắc cho sự phát triển của một số lĩnh vực, ngành công nghiệp. (2) Rà soát và cập nhật hệ thống văn bản pháp luật: cần rà soát, đánh giá toàn diện các loại văn bản, quy định có liên quan đến phát triển công nghiệp còn hiệu lực để xem xét tính phù hợp với thực tiễn đang đặt ra. Nếu phù hợp thì tiếp tục nghiên cứu bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện; nếu không phù hợp phải kiên quyết loại bỏ và ban hành văn bản mới, bảo đảm tính đồng bộ, minh bạch và khả thi của hệ thống pháp luật. (3) Lấy doanh nghiệp làm trung tâm trong xây dựng pháp luật: quá trình xây dựng và ban hành các thủ tục hành chính, văn bản quy phạm pháp luật phải lấy doanh nghiệp, nhà sản xuất làm trung tâm, phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Việc này đòi hỏi phải lắng nghe và tiếp thu ý kiến phản hồi từ doanh nghiệp, người hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực công nghiệp để thay đổi, cải cách các thủ tục hành chính một cách hiệu quả. Sự tham gia của các bên liên quan sẽ bảo đảm tính thực tiễn và khả thi của các quy định.

Thứ hai, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển công nghiệp bền vững

Nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố trung tâm, cơ bản của mọi sự phát triển; không có nguồn lực con người với trình độ, tay nghề cao thì không thể thực hiện được sự phát triển của các ngành, lĩnh vực. Cụ thể: (1) Tạo bước đột phá trong ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo: đối với phát triển công nghiệp bền vững, nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ tạo ra bước đột phá, thúc đẩy ứng dụng công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất, sáng chế, sáng tạo và vận hành hệ thống sản xuất. Vì thế, không chỉ giới hạn ở kỹ năng kỹ thuật mà còn bao gồm nguồn nhân lực trong lãnh đạo, quản lý, điều hành, phân phối, tạo ra sự gắn kết, liên doanh, liên kết cho sự phát triển công nghiệp bền vững. (2) Ưu tiên cho các ngành công nghiệp trọng yếu: đặc biệt ưu tiên đối với các ngành công nghiệp nặng như năng lượng, luyện kim, điện tử viễn thông, cơ khí, nguồn nhân lực cao sẽ góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ cho sản xuất, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. (3) Tăng cường liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp: cần tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các trường đại học uy tín chuyên đào tạo kỹ sư như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh, Đại học Xây dựng, Đại học Quốc gia Hà Nội với các doanh nghiệp để tuyển dụng và đào tạo nguồn lao động chất lượng cao. (4) Thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nhu cầu thị trường toàn cầu: chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phải thích ứng linh hoạt với nhu cầu của thị trường lao động toàn cầu và yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Điều này đòi hỏi sự đổi mới mạnh mẽ trong nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo, chú trọng trang bị kỹ năng số, tư duy sáng tạo, khả năng giải quyết vấn đề và kỹ năng làm việc.

Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp, ứng dụng công nghệ số vào phát triển công nghiệp bền vững

Hiện nay, Việt Nam đã có khá nhiều doanh nghiệp có vị thế và uy tín trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có khả năng cạnh tranh với những doanh nghiệp hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp công nghiệp có uy tín, thương hiệu như vậy còn chưa nhiều. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp là một giải pháp cốt lõi. Cụ thể:

(1) Phải tạo ra nhiều doanh nghiệp có uy tín và thương hiệu: trong thời gian tới, cần chú trọng đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp, tạo ra nhiều doanh nghiệp có uy tín, thương hiệu, đem lại lợi ích nhiều hơn nữa cho đất nước. Điều này đòi hỏi sự hỗ trợ từ Chính phủ trong việc xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng.

(2) Định vị lại vai trò của Chính phủ và phân cấp, phân quyền: Cần chuyển đổi vai trò từ quản lý sang quản trị và kiến tạo của Chính phủ đối với việc phát triển nền kinh tế đất nước. Cần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương, các sở, ban, ngành của địa phương chịu trách nhiệm kiểm soát về chất lượng hàng hóa, sản phẩm, môi trường sản xuất - kinh doanh. Qua đó, giúp tăng cường tính chủ động và trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý chất lượng và bảo vệ môi trường.

(3) Khuyến khích phát triển bền vững, tránh chạy theo lợi nhuận ngắn hạn: cần khuyến khích sự phát triển vươn lên chính đáng của mỗi doanh nghiệp công nghiệp, nhưng không phải bằng mọi giá, không chạy theo lợi nhuận mà gây ô nhiễm môi trường, gây bức xúc trong nhân dân. Các doanh nghiệp cần được hướng dẫn và khuyến khích thực hành kinh doanh có trách nhiệm, đầu tư vào các công nghệ sạch và quy trình sản xuất thân thiện với môi trường.

(4) Đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số: phát triển công nghiệp bền vững cần được áp dụng và triển khai chuyển đổi số để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp và các ngành nghề, lĩnh vực của công nghiệp; bao gồm việc đẩy mạnh xây dựng các dây chuyền sản xuất, cung ứng sản phẩm theo hướng hiện đại, giảm lao động thủ công, tăng tính chuyên môn, kỹ thuật của người lao động trong từng công đoạn.

(5) Phát triển nhà máy thông minh, doanh nghiệp thông minh: mục tiêu cuối cùng là xây dựng nhà máy thông minh, doanh nghiệp thông minh, nơi tất cả các quy trình đều được tự động hóa, mã hóa. Chỉ cần sự điều khiển của con người, mọi công đoạn và chu trình đều có thể vận hành trơn tru, tiết kiệm nhiên liệu và bảo đảm môi trường xanh, sạch, đẹp. Việc ứng dụng các công nghệ như AI, IoT, Big Data, Robot công nghiệp sẽ là yếu tố then chốt để hiện thực hóa mục tiêu này.

Thứ tư, tăng cường liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nước ngoài và khai thác thị trường quốc tế tiềm năng để phát triển công nghiệp bền vững

Các doanh nghiệp nước ngoài và thị trường tiềm năng ở Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… đều là những khu vực đem lại rất nhiều thời cơ và vận hội để các ngành công nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng bền vững.

(1) Tăng tính chủ động và lựa chọn đối tác chiến lược: các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường tính chủ động trong hợp tác, liên doanh, liên kết ở những ngành, lĩnh vực có thế mạnh, có sự hiểu biết sâu sắc về mọi mặt để tránh bị phụ thuộc hay lợi dụng trong quá trình thực hiện. Việc lựa chọn đối tác phải dựa trên cơ sở chiến lược, bảo đảm lợi ích lâu dài và sự chuyển giao công nghệ, tri thức.

(2) Xác định rõ lộ trình và tăng cường trao đổi thông tin: cần xác định rõ lộ trình, bước đi cụ thể ở những nội dung hợp tác, liên doanh, liên kết, thường xuyên có sự trao đổi thông tin qua lại, nắm bắt được tiến độ và chất lượng của lĩnh vực, hoạt động liên doanh, liên kết. Sự minh bạch và tin cậy lẫn nhau là yếu tố quan trọng để xây dựng mối quan hệ đối tác bền vững.

(3) Tranh thủ vốn, khoa học - công nghệ và kinh nghiệm quản lý: đối với những đối tác truyền thống, lâu năm, tin cậy, cần tăng cường hợp tác về vốn, công nghệ, trao đổi và hợp tác về nguồn nhân lực, đầu tư xây dựng công trình, dự án để khai thác một số nguồn lực là thế mạnh của Việt Nam. Đồng thời, tranh thủ sự giúp đỡ về vốn, khoa học - công nghệ từ những đối tác lâu dài, tin cậy để từng bước phát triển công nghiệp Việt Nam một cách bền vững và hiện đại.

Thứ năm, nâng cao năng lực hội nhập và tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký: tổ chức đào tạo, tư vấn, giúp doanh nghiệp nắm rõ quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn môi trường và lao động trong các FTA. Phát triển các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật, pháp lý cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận thị trường quốc tế thông qua các ưu thế của từng FTA. Cần có chiến lược cộng hưởng giữa các FTA để tạo lợi thế cạnh tranh cho công nghiệp Việt Nam.

3. Kết luận

Phát triển công nghiệp bền vững không chỉ là một mục tiêu mà còn là một chiến lược, đòi hỏi sự kiên trì và nỗ lực không ngừng của toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội. Với đường lối đúng đắn và nhất quán của Đảng, sự quản lý, điều hành linh hoạt của Nhà nước, cùng với sự chủ động của cộng đồng doanh nghiệp và người dân, Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu quan trọng trong hành trình này.

Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và nhiều biến động khó lường, những thách thức về năng lực cạnh tranh, nguồn nhân lực chất lượng cao, tính tự chủ công nghệ và những điểm nghẽn trong thể chế vẫn là những vấn đề cần được giải quyết một cách căn cơ. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp chiến lược như đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua chuyển đổi số và tăng cường liên kết quốc tế, là chìa khóa để Việt Nam vượt qua những trở ngại, tận dụng tối đa cơ hội.

Phát triển công nghiệp bền vững đòi hỏi sự quyết tâm cao độ, sự đổi mới sáng tạo không ngừng và khả năng thích ứng linh hoạt. Đó cũng là động lực để hiện thực hóa mục tiêu trở thành một nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI, khẳng định vững chắc vị thế và uy tín của mình trên trường quốc tế, góp phần xây dựng một đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bền vững.

TS NGUYỄN TOÀN THẮNG
Học viện Hành chính và Quản trị công

_________________

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 214 - 215.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.122.

(3) Bộ Chính trị: Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 15 - 11 - 2022 về phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

(4) Bộ Công Thương: Báo cáo công nghiệp Việt Nam năm 2023.

(5) Tổng cục Thống kê: Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2021.

(6), (7), (8), (12) Tổng cục Thống kê: Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2023.

(9) Tập đoàn Điện lực Việt Nam: Một số số liệu tổng quan về nguồn điện toàn quốc năm 2023.

(10) Bộ Tài nguyên và Môi trường: Báo cáo kiểm kê khí nhà kính quốc gia năm 2020.

(11) Bộ Công Thương: Báo cáo Hiện trạng Môi trường Quốc gia giai đoạn 2016–2020.

(13) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Thông báo số 1229/TB-LĐTBXH, ngày 07 - 4 - 2023 về tình hình tai nạn lao động năm 2022.

 

 


Nguồn: Tạp chí Lý luận Chính trị
Thống kê truy cập
Hôm nay : 621
Tháng 12 : 46.786
Năm 2025 : 791.020