A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ Tăng tương phản Giảm tương phản

Người thầy thuốc làm rạng danh y học Việt Nam - Giáo sư Tôn Thất Tùng

Giáo sư, Viện sĩ, bác sĩ Tôn Thất Tùng (1912-1982) là một bác sĩ phẫu thuật nổi danh trong lĩnh vực nghiên cứu về gan. Ông là người đầu tiên nghiên cứu thành công phương pháp “cắt gan có kế hoạch” (còn được gọi là “phương pháp cắt gan khô” hay “phương pháp Tôn Thất Tùng”).

Suốt cuộc đời, giáo sư luôn gắn bó với bệnh viện, với các đồng nghiệp, các học trò và các bệnh nhân của mình, ông làm việc không mệt mỏi cho đến tận cuối đời.

Ông sinh ngày 10/5/1912 tại Thanh Hóa và lớn lên ở Huế. Xuất thân từ một gia đình quý tộc nhà Nguyễn (thân sinh ông là cụ Tôn Thất Niên, Tổng đốc Thanh Hóa).

Năm 1931, ông ra Hà Nội theo học tại trường Trung học Bảo Hộ (tức trường Bưởi - trường Chu Văn An ngày nay).

Năm 1932, ông học tại trường Y - Dược, một thành viên của Đại học Đông Dương. Năm 1935, Tôn Thất Tùng được tuyển cùng 10 sinh viên khác làm ngoại trú tại Bệnh viện Phủ Doãn. Sau đó, ông là người duy nhất được nhận vào làm việc tại khoa ngoại của trường Y - Dược, tức là Bệnh viện Việt - Đức hiện nay.

 

Qua học tập, quan sát, bác sĩ Tôn Thất Tùng đã phát hiện trong gan của một người bệnh có hàng chục con giun chui ở các đường mật. Với một dụng cụ thô sơ, chỉ bằng một con dao nạo, ông đã phẫu tích kỹ lưỡng cơ cấu của lá gan. Trong suốt thời gian từ 1935 đến năm 1939, ông phẫu tích trên 200 lá gan của các tử thi để nghiên cứu các mạch máu. Trên cơ sở đó, ông viết và bảo vệ thành công luận án tốt nghiệp bác sĩ y khoa với nhan đề “Cách phân chia mạch m.áu của gan”.

Với bản luận án này, ông được tặng Huy chương Bạc của Trường Đại học Tổng hợp Paris (Trường Đại học Y - Dược tại Hà Nội lúc bấy giờ là một bộ phận). Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945, ông đã viết cuốn sách tóm tắt kinh nghiệm nghiên cứu về giun với vấn đề “Viêm tụy cấp tính và phẫu thuật”. Đây là cuốn sách khoa học thuộc ngành Y được xuất bản đầu tiên tại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Năm 1939, ca mổ gan đầu tiên theo phương pháp do Tôn Thất Tùng đề xướng đã được thực hiện thành công.

Chỉ tính riêng 10 năm (từ năm 1936 đến năm 1945), Giáo sư Tôn Thất Tùng đã công bố 63 công trình trên các tạp chí y học của Pháp.

Trong thời kỳ chiến tranh ác liệt, ông cùng với Giáo sư Đặng Văn Ngữ đã góp phần sản xuất penicillin phục vụ thương bệnh binh trong điều kiện dã chiến.

Năm 1947, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế và giữ chức vụ này cho tới năm 1961.

Năm 1952, tại Hội nghị Phẫu thuật quốc tế ở Copenhaghen (Đan Mạch), phương pháp cắt gan của ông được thừa nhận.

Từ năm 1954, ông làm Giám đốc bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, và giữ cương vị Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại Đại học Y Dược Hà Nội.

Nǎm 1958, ông là người thực hiện ca mổ tim đầu tiên ở Việt Nam.

Trong những năm 1960, ông đã nghiên cứu thành công phương pháp “cắt gan có kế hoạch” (thường được gọi là “phương pháp mổ gan khô” hay “phương pháp Tôn Thất Tùng”).

Năm 1961, Giáo sư Tôn Thất Tùng cắt thành công thùy gan của một người bệnh ung thư sơ phát chỉ sau 6 phút thay vì 3-4 tiếng theo phương pháp của phương Tây. Sở dĩ có thể làm được như vậy là vì chính Giáo sư là người đầu tiên trên thế giới mô tả được rành rẽ các mạch máu và ống mật trong gan.

Phương pháp cắt gan của Giáo sư được giới thiệu trong “Bách khoa thư nội thương - phẫu thuật” của Pháp; được đưa vào “Tuyển chọn các tài liệu sản khoa và phẫu thuật” của Mỹ.

Giáo sư Tôn Thất Tùng là tấm gương người thầy mẫu mực, trung thực, say mê khoa học, hết lòng nghiên cứu khoa học và yêu thương học trò. Ông là một trong những người chủ chốt đầu tiên đào tạo đội ngũ thầy thuốc có y đức, giỏi chuyên môn; đề cập việc tiếp thụ y học phương Tây để xây dựng và phát triển nền y học Việt Nam, đi đầu trong việc áp dụng các kỹ thuật phát triển ngành ngoại khoa Việt Nam.

Giáo sư đã tham gia nhiều hội nghị khoa học quốc tế, được mời giảng bài ở nhiều trường đại học y khoa, được bầu làm viện sĩ Viện Hàn lâm Y học Liên Xô, Hội quốc gia những nhà phẫu thuật Cộng hòa Dân chủ Đức, Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris và Hội những nhà phẫu thuật Lion (Pháp), Hội quốc gia những nhà phẫu thuật Angiêri. Năm 1977, Giáo sư được Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris tặng Huy chương phẫu thuật quốc tế mang tên Lannelongue. Đây là phần thưởng cao quý dành cho những nhà phẫu thuật xuất sắc thế giới được trao định kỳ 5 năm một lần. Ông vinh dự và xứng đáng là một trong 12 người trên thế giới và là người duy nhất ở Việt Nam được tặng huy chương ấy.

Giáo sư là đại biểu Quốc hội liên tục từ khóa II đến khóa VII và giữ chức vụ Ủy viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Ông qua đời đột ngột qua đời do một cơn nhồi m.áu cơ tim vào năm 1982 tại Hà Nội, thọ 70 tuổi; An táng tại Nghĩa trang Mai Dịch - Hà Nội.

Ngay sau khi nhận được tin, trong bức thư gửi đến Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp, bác sĩ Jean-Michel Krivine, Chủ nhiệm Khoa Phẫu thuật Trung tâm Bệnh viện Émile Roux, Paris, viết: “Việc Giáo sư Tôn Thất Tùng qua đời làm cho tôi cũng như nhiều bạn bè của giáo sư choáng váng (...). Không ai có thể thay thế Giáo sư Tôn Thất Tùng. Không một nhà phẫu thuật nào có tầm cỡ như giáo sư trong thế hệ hiện nay. Nhưng giáo sư vẫn sống với trường phái do ông sáng lập...”.

Giáo sư Tôn Thất Tùng vẫn sống vì ông là “cha đẻ” của một phương pháp cắt gan mang tên: Phương pháp Tôn Thất Tùng. Đây là phương pháp được bắt nguồn từ những nghiên cứu cơ bản của ông trong những năm 1935-1939. Phương pháp này cho phép cắt gan chỉ mất 4-8 phút trong khi theo phương pháp kinh điển mang tên vị giáo sư người Pháp Lortat-Jacob thì phải mất 3-6 giờ.

Với những công lao và cống hiến to lớn đối với đất nước, Giáo sư Tôn Thất Tùng đã được tặng những danh hiệu như: Anh hùng Lao động, hai lần Huân chương Lao động hạng Nhất, Huân chương chiến sĩ hạng Nhất, Huân chương kháng chiến hạng Ba và được truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

Năm 2002, nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh của giáo sư, Bộ Y tế đã thành lập hội đồng xét tặng giải thưởng mang tên ông - Giải thưởng Tôn Thất Tùng.

Tên ông được đặt cho nhiều con đường trong cả nước. Đặc biệt, tên ông được đặt cho con đường đi qua Đại học Y Hà Nội - nơi ông từng học và đào tạo ra những bác sĩ ngoại khoa tài năng.

 


Nguồn: Báo Giáo dục Việt Nam
Thống kê truy cập
Hôm nay : 209
Hôm qua : 3.474
Tháng 03 : 81.699
Năm 2024 : 180.365