A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ Tăng tương phản Giảm tương phản

Xây dựng chuẩn mực đạo đức công vụ cho cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay

Thực tiễn hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân yêu cầu ngày càng cao đối với đạo đức công vụ của cán bộ, đảng viên. Đạo đức công vụ của cán bộ, đảng viên được xem như một thước đo phản ánh cho đạo đức chung của nền công vụ, là hình ảnh của nền công vụ, của Nhà nước với nhân dân…

Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng trao Quyết định bổ nhiệm các Đại sứ, Trưởng cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài, nhiệm kỳ 2024 - 2027. Ảnh: TTXVN.

1. Nhận diện yêu cầu thực tiễn về chuẩn mực đạo đức công vụ cho cán bộ, đảng viên

Đạo đức công vụ là một dạng cụ thể của đạo đức xã hội, bao gồm những tiêu chuẩn, nguyên tắc quy định hành vi của người thực thi công vụ và quan hệ của họ với công dân, đồng nghiệp và các chủ thể khác trong hoạt động công vụ. Hoạt động công vụ là những hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do các chủ thể được Nhà nước ủy quyền thực hiện theo quy định của pháp luật, nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phục vụ lợi ích của Nhà nước, nhân dân và xã hội. Từ quan niệm trên có thể thấy, mọi chủ thể thực thi công vụ đều là chủ thể thực hiện đạo đức công vụ. Đó là những người được Nhà nước trao cho quyền lực công để thực hiện nhiệm vụ chung, bao gồm cán bộ, công chức, viên chức, người làm việc trong lực lượng vũ trang và người dân thường trong một số trường hợp khẩn cấp, đặc biệt được Nhà nước trao quyền lực công để thực thi nhiệm vụ, vì lợi ích chung của Nhà nước, nhân dân và xã hội.

Đạo đức công vụ là một bộ phận không tách rời của đạo đức cá nhân; theo đó, cùng với việc thực hiện đạo đức công vụ, người thực thi công vụ còn phải nghiêm chỉnh tuân theo các chuẩn mực đạo đức chung của xã hội, gia đình và cộng đồng. Vì vậy, người thực thi công vụ không những phải tuân thủ yêu cầu chuẩn mực trong công việc, mà còn phải là những tấm gương, hình mẫu về đạo đức, qua đó góp phần củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước, chế độ chính trị và nền công vụ. Nếu người thực thi công vụ, cán bộ, đảng viên chỉ chú ý làm đúng những nguyên tắc, chuẩn mực trong hoạt động công vụ mà không thực hành tốt các chuẩn mực đạo đức xã hội nói chung, đạo đức công vụ nói riêng thì đó chưa phải là người toàn diện trong ứng xử và lối sống.

Đạo đức công vụ còn là một dạng của đạo đức nghề nghiệp, nghĩa là bên cạnh những chuẩn mực đạo đức chung quy định cho tất cả những người thực thi công vụ thì trong mỗi ngành nghề, người thực thi công vụ còn phải tuân theo các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp riêng. Chẳng hạn, những người làm việc trong ngành tư pháp phải tuân theo chuẩn mực “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”; những người làm việc trong ngành hải quan, thuế vụ, tài nguyên môi trường, y tế… đều phải tuân theo chuẩn mực riêng, gắn liền với hoạt động nghề nghiệp của họ.

Đạo đức công vụ được hình thành trên cơ sở liên hệ và tác động lẫn nhau của những yếu tố hợp thành đạo đức công vụ. Cấu trúc của đạo đức công vụ được nghiên cứu, xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Mỗi góc độ cho phép chúng ta nhìn ra một lớp cấu trúc xác định. Xem xét đạo đức công vụ theo mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì đạo đức công vụ hợp thành từ hai yếu tố ý thức đạo đức công vụ và thực tiễn/hành vi đạo đức công vụ, song hành vi đạo đức lại thể hiện thông qua quan hệ đạo đức công vụ. Còn xem xét theo quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến, cái đặc thù với cái đơn nhất thì đạo đức công vụ được nhìn nhận từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân.

Khi xây dựng chuẩn mực đạo đức công vụ của cán bộ, đảng viên cần phải nhận diện vấn đề này ở các góc độ.

Thứ nhất, đạo đức công vụ gắn với nền công vụ, với nhà nước, chính thể. Do vậy, sự trung thành của người thực thi công vụ với nhà nước, chính thể, tổ chức là yêu cầu quan trọng hàng đầu của đạo đức công vụ. Đây là đặc điểm quan trọng của đạo đức công vụ đối với người thực thi công vụ. Đặc điểm này mang tính chính trị vì hoạt động công vụ đều hướng tới thực hiện những nhiệm vụ chính trị nhất định, các hoạt động công vụ trong bản chất của nó mang nội dung chính trị. Do đó, một trong những phẩm chất đạo đức không thể thiếu của những người phục vụ nhà nước vào bất kỳ thời đại nào, trong bất kỳ chính thể nào đều phải trung thành với nhà nước, với chính thể mà mình phục vụ, trung thành với sự nghiệp của tổ chức, nơi mình phục vụ, luôn phấn đấu vì mục tiêu chung của tổ chức. Đây là đặc điểm quan trọng và là tiêu chí để đánh giá cán bộ, công chức, đồng thời cũng là yêu cầu của Nhà nước, cơ quan, tổ chức đối với người thực thi công vụ. Người thực thi công vụ không được phản bội Tổ quốc, chính thể, cơ quan, tổ chức mà mình đang phục vụ.

Thứ hai, đạo đức công vụ gắn với việc chấp hành Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật, các quy định, quy chế làm việc trong thi hành công vụ. Đặc điểm này liên quan đến tính hợp hiến, hợp pháp của hoạt động công vụ bắt nguồn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Có thể nói rằng, việc thực hiện “Hiến pháp và pháp luật là thước đo đạo đức”, sự chấp hành Hiến pháp, pháp luật là tiêu chí không thể thiếu để đánh giá đạo đức của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ, và cả trong cuộc sống, vì Hiến pháp và pháp luật là khuôn mẫu về hành vi, xử sự đã được Nhà nước thừa nhận chính thức, do đó, chấp hành Hiến pháp và pháp luật là chấp hành các giá trị đạo đức đã được pháp luật hóa.

Các quy định, quy chế làm việc của cơ quan, đơn vị có vai trò, tác dụng rất lớn trong củng cố pháp chế và kỷ luật, quan hệ trong công vụ. Quy chế làm việc của cơ quan điều chỉnh nhiều quan hệ trực tiếp liên quan tới quan hệ công vụ của cán bộ, công chức, đó là quan hệ giữa người với người trong thực thi công vụ, giữa lãnh đạo, quản lý cấp trên với cấp dưới, những người lãnh đạo, quản lý cùng cấp, giữa người lãnh đạo, quản lý với nhân viên, giữa nhân viên với nhân viên, giữa người thực thi công vụ với công dân và tổ chức.

Thứ ba, đạo đức công vụ gắn với trách nhiệm thực hiện công vụ một cách tận tâm, tận tụy. Sự tận tâm, tận tụy trong thực hành đạo đức công vụ của cán bộ, đảng viên được thể hiện trên nhiều phương diện. Đó là sự nỗ lực hết lòng trong công việc, trong việc thực hiện nhiệm vụ được phân công, luôn đặt lợi ích chung, lợi ích của nền công vụ lên trên hết, trước hết, luôn thực hiện công vụ với tinh thần trách nhiệm cao nhất.

Thứ tư, đạo đức công vụ gắn với chất lượng, hiệu quả hoạt động công vụ của cán bộ, công chức, phản ánh mối quan hệ giữa cán bộ, công chức với đồng nghiệp. Người cán bộ, công chức thực thi công vụ được Nhà nước trả lương từ ngân sách nhà nước, thực chất là từ tiền thuế của nhân dân, do đó, hoạt động công vụ của họ phải mang lại chất lượng, hiệu quả nhất định nhằm góp phần tạo ra những giá trị xã hội, hoặc đáp ứng các yêu cầu hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Chất lượng, hiệu quả hoạt động công vụ, việc hoàn thành nghĩa vụ, nhiệm vụ công vụ của cán bộ, công chức là thước đo đánh giá sự phục vụ, cống hiến của họ đối với nhà nước, xã hội, do đó hiệu quả hoạt động công vụ phải được coi là một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá đạo đức công vụ của cán bộ, công chức.

Thứ năm, đạo đức công vụ gắn với cách thức thực thi công vụ, phản ánh tính trung thực, không thiên vị, vụ lợi trong hoạt động công vụ, tính tự giác thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, bổn phận công vụ. Tính trung thực của con người trong đời sống quyết định sự đúng đắn, khách quan trong mọi quan hệ xử sự của con người, đặc biệt đối với cán bộ, đảng viên khi thực thi công vụ. Khi không trung thực trong cuộc sống, trong hoạt động công vụ sẽ dẫn đến những quyết định sai trái gây tổn hại cho nhà nước, xã hội, cá nhân, tổ chức.

Thái độ của người thực thi công vụ đối với việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, bổn phận công vụ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá đạo đức công vụ của họ. Thái độ trong công vụ có ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động công vụ, quan hệ của người thực thi công vụ với khách hàng của nền công vụ. Người thực thi công vụ có thể bằng lòng nhiệt tình, sự tự giác hoặc cũng có thể bằng thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm. Vì vậy, cần coi thái độ thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, bổn phận công vụ là một trong những đặc tính cơ bản của đạo đức công vụ, là tiêu chí để đánh giá đạo đức công vụ của người thực thi công vụ.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ

Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần tư tưởng biện chứng, luôn nhìn thấy sự tương tác giữa đạo đức cá nhân với xã hội, giữa đạo đức của cán bộ, công chức và nhân dân lao động nói chung,... Thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Với nguyên lý chủ quyền nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức cách mạng là “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”.

Những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh đưa ra rất toàn diện và với mọi đối tượng xã hội, nhưng những nội dung đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là đạo đức công vụ, là nội dung chiếm phần chủ yếu trong tư tưởng đạo đức của Người. Theo đó, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức bao gồm những chuẩn mực cơ bản sau:

Thứ nhất, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người, nhằm xử lý mối quan hệ “tự mình đối với mình”. Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người, thiếu một đức thì không thành người. Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho Đảng ta và nhân dân ta, Người vẫn không quên căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Người cho rằng, cán bộ, công chức, viên chức, muốn “giúp công việc Chính phủ một cách đắc lực, nâng cao tinh thần kháng chiến, giúp công việc Chính phủ một cách đắc lực, để nâng cao tinh thần kháng chiến, anh em viên chức bây giờ phải có bốn đức tính là: cần, kiệm, liêm, chính”. Đây cũng là bốn đức tính đạo đức cần có của người cán bộ, đảng viên, công chức hiện nay, thể hiện thông qua những hành vi cụ thể trong hoạt động thực thi công vụ. Những cán bộ, đảng viên, công chức trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.

Thứ hai, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc. Con người là sản phẩm của xã hội và là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Con người có bao nhiêu mối quan hệ xã hội thì cũng có bấy nhiêu trách nhiệm phải làm tròn (trách nhiệm của mỗi thành viên trong gia đình, trong cộng đồng, tổ chức, xã hội; trách nhiệm công dân trong quan hệ với đất nước…). Riêng đối với cán bộ, đảng viên, công chức còn có ba trách nhiệm cơ bản: trước Đảng; trước dân và trước công việc. Theo đó, việc được giao dù to hay nhỏ, khó hay dễ cũng đều phải đem cả tinh thần và lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, làm một cách tự giác, theo lương tâm, lương tri, theo nhu cầu nội tâm của cá nhân mình. Tất cả mọi người, ở mọi địa vị, vị trí công tác, trong mọi hoàn cảnh đều phải nêu cao tinh thần trách nhiệm. Đối với cán bộ, đảng viên còn là “công bộc”, “đày tớ” của dân nên phải có trách nhiệm hết lòng, hết sức, phải tận tâm, tận lực, tận tình phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Thứ ba, chấp hành nghiêm kỷ luật và có tinh thần sáng tạo trong thi hành công vụ. Chấp hành nghiêm những quy định của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức khi thực thi công vụ và đúng thẩm quyền, không được lạm quyền hay lánh nặng, tìm nhẹ, trốn tránh trách nhiệm, “đứng núi này trông núi nọ” là nghĩa vụ của cán bộ, công chức. Đồng thời, phải gương mẫu về đạo đức, tự giác tuân thủ kỷ luật của cơ quan, giữ vững nền nếp công tác, tránh mọi cám dỗ. Khi thực hiện nhiệm vụ phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo, tránh rập khuôn, giáo điều, cứng nhắc theo tinh thần “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, như thế công việc mới “chạy” được. Mặt khác, phải luôn có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn đấu hoàn thành công việc đúng thời gian quy định, đảm bảo đủ số lượng và chất lượng.

Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm, động viên các lực lượng đang thực hiện nhiệm vụ tại Cửa khẩu quốc tế Trà Lĩnh, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, ngày 01/1/2024. Ảnh: Cổng thông tin điện tử Chính phủ.

Thứ tư, có tinh thần thân ái, hợp tác với đồng nghiệp trong thực hiện công việc như Bác dạy và tuyệt đối không tranh giành ảnh hưởng của nhau, không ghen ghét đố kỵ và khinh kẻ không bằng mình; “phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”.

3. Thể chế pháp lý về chuẩn mực đạo đức công vụ

Ngay từ năm 1950, trong điều kiện khó khăn, gian khổ của công cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành Quy chế công chức Việt Nam. Với văn bản này có thể nói, đây là lần đầu tiên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành một hệ thống các quy phạm pháp luật khá hoàn chỉnh, làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ công chức cách mạng Việt Nam. Trong đó, tại Lời nói đầu, nội dung về công chức và đạo đức công vụ đã được thể hiện rất rõ: “Công chức Việt Nam là những công dân giữ một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân… Công chức Việt Nam phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc”.

Điều 2 của Quy chế quy định: “Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với Chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.

Điều 3 của Quy chế quy định quyền lợi của công chức và tại các điều tiếp theo quy định việc tuyển dụng, tổ chức, quản trị, sử dụng công chức.

Từ những quy định trên có thể thấy, ngay trong Quy chế công chức đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Nhà nước ta đã nêu lên những chuẩn mực đạo đức - pháp lý rất quan trọng đối với công chức nhà nước. Lần đầu tiên những giá trị đạo đức truyền thống: cần, kiệm, liêm, chính... được thể chế hóa thành những giá trị chuẩn mực pháp lý đối với công chức Việt Nam. Điều này có ý nghĩa quan trọng và vượt qua thời gian, đến nay, những quy định này vẫn còn nguyên giá trị.

Kế thừa và phát huy những quy định pháp luật về công chức và đạo đức công vụ và nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng và kiện toàn đội ngũ công chức trong tình hình mới, Hiến pháp năm 1980 quy định tại Điều 8: “Tất cả các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”.

Như vậy, với quy định của Hiến pháp năm 1980, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Nhà nước ta đã ban hành những chuẩn mực về đạo đức - pháp lý cho công chức và cơ quan nhà nước trong đạo luật gốc, đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiến pháp năm 1992, tại Điều 8 cũng quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng”. Hiến pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”.

Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật về đạo đức công vụ. Trong đó, Luật dành toàn bộ Mục 3 Chương II (từ Điều 37 đến Điều 43) quy định về quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức.

Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã có những bước phát triển rất căn bản như: mở rộng đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập; bổ sung một số loại tài sản, thu nhập phải kê khai; xác định thời điểm kê khai tài sản, thu nhập trước ngày 31/12 hằng năm; bản kê khai tài sản, thu nhập phải được công khai; kê khai không trung thực có thể bị buộc thôi việc; cơ quan xảy ra tham nhũng, người đứng đầu phải chịu trách nhiệm…

Trong Luật cán bộ, công chức năm 2008, lần đầu tiên các quy định về đạo đức công vụ được quy định ở cấp độ luật và thay thế cho các quy định trong Pháp lệnh cán bộ, công chức. Trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức, nội dung các quy định pháp luật về đạo đức công vụ đã bao quát được các yêu cầu chuẩn mực đạo đức đối với công chức, điều chỉnh hành vi công chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội trong hoạt động công vụ, phục vụ hoạt động công vụ cần thiết phải được quy định cụ thể bao gồm các quy định mang tính nguyên tắc về chuẩn mực đạo đức công vụ như: công chức phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; các quy định ngăn cấm không được thực hiện về đạo đức công vụ; các quy định nghĩa vụ phải được thực hiện về đạo đức công vụ; trách nhiệm pháp lý đối với công chức do vi phạm đạo đức công vụ; khen thưởng, tôn vinh đối với công chức. Các quy định về đạo đức công vụ hiện hành bước đầu đã tạo thành một hệ thống các quy định pháp luật về đạo đức công vụ, bao quát được toàn bộ các vấn đề về đạo đức công vụ cần được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh.

4. Chuẩn mực đạo đức công vụ cho cán bộ, đảng viên

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, công tác xây dựng Đảng về đạo đức được khẳng định là một trong 5 nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhưng điểm nhấn đặc biệt quan trọng ở Đại hội XIII là cùng với việc làm rõ một số nội dung cụ thể trong xây dựng Đảng về đạo đức thì phải “Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức”, coi đây là “gốc”, là nền tảng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được xem là khâu then chốt, một mục tiêu mà Đảng ta cần phấn đấu, làm cho Đảng luôn xứng đáng với mong mỏi của toàn dân, thực sự tiêu biểu cho “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”.

Đảng ta đã chỉ rõ những hạn chế tồn tại trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức với cái nhìn sâu sắc hơn gắn liền với điều kiện lịch sử trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, Đảng đã xác định rõ mục tiêu xây dựng Đảng về đạo đức chính là nhằm “Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đồng thời phải góp phần đưa Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự “là đạo đức”, “là văn minh”.

Cán bộ, đảng viên phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là yêu cầu tất yếu của công chức vì Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề cập và nhấn mạnh hầu hết các mặt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về đạo đức, với sáu giải pháp trọng tâm là: 1) Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; 2) Thực hiện nghiêm quy định nêu gương; 3) Bổ sung, hoàn thiện các giá trị và xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng; 4) Giáo dục đạo đức cách mạng; 5) Đấu tranh chống quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức; 6) Khen thưởng, kỷ luật cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng đã đưa nội dung “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức cách mạng”.

Chuẩn mực đạo đức công vụ của cán bộ, đảng viên cần đặt trong các mối quan hệ với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc, Nhân dân, với cấp trên, đồng nghiệp, với bản thân, trong cộng đồng, xã hội.

Thứ nhất, cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng. Cán bộ, đảng viên, những người làm việc trong bộ máy nhà nước, mà Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; vì thế nên trung thành với sự nghiệp cách mạng là phẩm chất đạo đức đầu tiên cần phải có ở cán bộ, đảng viên.

Thứ hai, cán bộ, đảng viên phải có ý thức rèn luyện chuyên môn, nghiệp vụ. Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ là phẩm chất thuộc về tài, còn ý thức rèn luyện chuyên môn, nghiệp vụ là phẩm chất thuộc về đức. Bất kỳ ai, khi làm bất cứ việc gì và bất cứ ở đâu mà không thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ thì đều có thể gây ra tác hại lớn cho xã hội. Đặc biệt, đối với cán bộ, đảng viên, những người hoạt động trong bộ máy Đảng, Nhà nước, liên quan đến toàn bộ đời sống xã hội, sự không thạo việc của họ sẽ dẫn đến tác hại khôn lường.

Thứ ba, cán bộ, đảng viên phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là yêu cầu tất yếu của công chức vì Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu”.

Thứ tư, cán bộ, đảng viên phải dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, không hoang mang khi thất bại, không kiêu ngạo khi thắng lợi. Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ và đảng viên cần nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân... Phải “chí công vô tư” và có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”” Cán bộ, đảng viên phải thực sự “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách” như định hướng Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định.

Thứ năm, cán bộ, đảng viên phải trung thực, luôn có chí tiến thủ, luôn tự phê bình và phê bình, không thành kiến, không giấu khuyết điểm, phải là một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng, phải vì dân, vì nước. Đạo đức của người cách mạng không phải là những giáo điều nói suông mà phải là đạo đức của hành động.

Thứ sáu, cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước, từ sự đóng góp của nhân dân; nhân dân trả công cho cán bộ, công chức để phục vụ họ thì những người này phải cố gắng làm để phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhân dân, đó là cần. Sở dĩ có nạn tham ô và lãng phí là do bệnh quan liêu. Vì mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững, đó là không liêm, không chính. Cán bộ, đảng viên làm việc công, sử dụng ngân sách, lại có ít nhiều quyền hành nếu không có ý thức, tinh thần cao thì rất dễ hủ bại, đó là thiếu chí công vô tư.

Thứ bảy, cán bộ, đảng viên phải có tinh thần trách nhiệm cao với công việc, không nên suy bì xem công việc của mình có quan trọng hay không; công việc nào cũng cần thiết đối với cách mạng; khi đã làm việc gì dù gặp khó khăn, trở ngại cũng phải quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Thứ tám, cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật và có tinh thần sáng tạo trong thi hành công vụ, có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn đấu trong công việc. Cán bộ, đảng viên phải luôn có chí tiến thủ, tinh thần cầu tiến bộ. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành công vụ cần phải gương mẫu về đạo đức, tự giác tuân thủ kỷ luật của cơ quan, giữ vững nền nếp công tác, tránh được những cám dỗ; cán bộ phụ trách phải theo đường lối chung nhưng cũng phải suy nghĩ tìm tòi, có những sáng kiến riêng của mình.

Thứ chín, cán bộ, đảng viên phải có tinh thần thân ái, hợp tác với đồng nghiệp trong thực hiện công việc. Mọi người cần đoàn kết thân mật, hợp tác chặt chẽ với nhau thì công việc mới hoàn thành được; thân ái, hợp tác ở đây không phải là bao che khuyết điểm cho đồng nghiệp mà để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm kỷ luật trong thi hành công vụ và trong cuộc sống.

Thứ mười, với bản thân, cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức công vụ gắn với học tập nâng cao trình độ, năng lực, chịu học, biết học và biết học có hiệu quả, bám sát thực tiễn, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; kiên trì tích lũy kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng công tác. Cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện bản lĩnh và năng lực lãnh đạo, quản lý, khả năng cùng làm việc với tập thể, khả năng tổ chức thực hiện và biết chịu trách nhiệm. Kiên trì cuộc đấu tranh chống lại thói hư, tật xấu, nhất là những biểu hiện tiêu cực trong thực thi công vụ; rèn luyện đạo đức để tự hoàn thiện nhân cách. Yêu cầu rất cao về đạo đức đối với người cán bộ, đảng viên là người cán bộ, đảng viên phải là hiện thân của đạo đức. Sẽ không có gì phản diện hơn khi mà người được giao nhiệm vụ chăm lo cho sự trong sạch, phục vụ nhân dân lại là người không có đủ năng lực và đạo đức tương xứng với công việc, chức trách được giao. Điều đó đánh mất niềm tin, lòng tin của nhân dân đối với nền công vụ. Bên cạnh đó, cán bộ, đảng viên cần ý thức sâu sắc về bổn phận, trách nhiệm, nhất là ý thức rõ rệt về trách nhiệm cá nhân trước những công việc được giao phó. Biết coi trọng nhân cách, phẩm giá, danh dự của bản thân thì mới biết tôn trọng người khác, danh dự và nhân phẩm của người khác, đồng thời cần sự dũng cảm, chống lại cái xấu xa, hư hỏng, lỗi thời, xây dựng những cái mới mẻ, tiến bộ, góp phần xây dựng nền công vụ thực sự trách nhiệm, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân./.

PGS.TS. Nguyễn Bá Chiến

Giám đốc Học viện Hành chính quốc gia

(Tham luận tại Hội thảo khoa học quốc gia "Những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức trong giai đoạn mới")


Nguồn: Ban Tuyên giáo Trung ương
Thống kê truy cập
Hôm nay : 537
Hôm qua : 4.812
Tháng 05 : 31.699
Năm 2024 : 331.113