Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời vào xây dựng xã hội học tập hiện nay
CTTBTG- Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà giáo dục vĩ đại, trong tư tưởng của Người về học tập suốt đời khái quát hết các lĩnh vực của học tập: trách nhiệm phải học tập; mục đích học tập, nội dung học tập và phương pháp, hình thức học tập suốt đời. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về học tập suốt đời còn nguyên tính thời sự và là cơ sở cho công tác xây dựng xã hội học tập ngày nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp ảnh cùng các em học sinh và giáo viên Trường Cấp I, II Móng Cái, ngày 19/02/1960. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh)
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI
Học tập suốt đời là nhiệm vụ của mỗi công dân, của tổ chức
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Mỗi công dân Việt Nam cần: “Biết ham học… Biết rồi, ta học thêm. Ngoài ra, còn biết bao điều cần học. Việc thế giới rất nhiều, học không bao giờ hết. Người có học mới có tiến bộ. Càng học càng tiến bộ” .“Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự đào thải mình” , vì vậy, mỗi người đều “Phải biết tự động học tập” ; “phải học nữa, học mãi trong khi đi làm việc” .“Trai, gái, trẻ, già, cán bộ, công nhân đều phải học cả” .“Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng” .
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ tổ chức cho đảng viên, thành viên của mình tự học suốt đời. Người chỉ thị lập ủy ban học tập ở mỗi cơ quan, đơn vị, đoàn thể, quy định thời gian học tập, tài liệu, cách thức học tập và kiểm tra việc học tập của mỗi người.
Học tập suốt đời để luôn tiến bộ, để phụng sự nhân dân tốt hơn
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Mục đích học tập suốt đời là để tiến bộ không ngừng; để phục vụ nhân dân tốt hơn. Người chỉ rõ, “Muốn tiến bộ mãi thì phải học tập. Học trong sách báo, học trong công tác, học với anh em, học hỏi quần chúng. Học tập để phát triển ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm” . “Muốn tiến bộ kịp sự biến đổi vô cùng tận, thì chúng ta phải nghiên cứu, học tập. Nghiên cứu, học tập lý luận và kỹ thuật” . “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm” . “Học để phụng sự Nhân dân, làm đầy tớ của nhân dân” . “Phải cố gắng học hỏi để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa và kỹ thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân” .
Người xác định rất cụ thể bốn mục tiêu của tự học: Học để sửa chữa tư tưởng; học để tu dưỡng đạo đức cách mạng; học để tin tưởng và học để hành. “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ. Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới - trước hết là tổ chức nền sản xuất mới. Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình” .
Học tập suốt đời cả về chính trị, văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ, học kinh nghiệm và phương pháp làm việc
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nội dung của học tập suốt đời đa dạng, phong phú, theo yêu cầu phát triển đất nước: “Chúng ta cần học nhiều thứ: học chính trị, học văn hóa, học kỹ thuật, nghiệp vụ” . “Nếu không học tập văn hóa, không có trình độ văn hóa thì không học tập được kỹ thuật, không học tập được kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu kinh tế nước nhà; nhưng phải chú ý học tập chính trị vì nếu chỉ học văn hóa, kỹ thuật mà không có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi” .
Hồ Chí Minh rất chú ý việc học hỏi kinh nghiệm: “đặc biệt phải chú trọng học tập kinh nghiệm và tác phong công tác tốt của các đồng chí chuyên gia bạn”; “bất kỳ việc gì có lợi là ta phải học”,“Khi xã thí điểm đã làm tốt, thì mời nông dân và thanh niên các xã khác đến tham quan, làm thử, thảo luận, phê bình, học tập, rồi về làm ở xã mình” .
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Nhà máy diêm Thống Nhất (năm 1956) |
Phương pháp học tập suốt đời là học mọi lúc, mọi nơi, mọi người
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân; học tập trong việc làm hàng ngày, trong việc lớn cũng như việc nhỏ, việc cao cũng như việc thấp; vừa làm vừa học, nghiên cứu không những trong sách vở mà ngay trong những công tác của mình. Người chỉ rõ, “Một người phải biết học nhiều người” ; “học tập ngay trong sản xuất, học tập những người, những tổ, những đơn vị tiên tiến… Không những thế mà còn phải tìm học những cái hay mà mỗi người lao động trung bình hoặc chậm tiến đều có thể có” .
Hồ Chủ tịch hướng dẫn phương pháp học tập biện chứng và khoa học: phải xem xét toàn diện, xem quá khứ, nhất là xem hiện tại để hiểu biết và suy đoán tương lai. Có thế mới nhận định tình hình, mới nhận xét sự việc xảy ra được đúng đắn.
Người kể về kinh nghiệm tự học của bản thân: “... một là học trong đời sống của mình, hai là học ở giai cấp công nhân” ;“vừa học, vừa lao động” ; “học tập không ngừng và phải luôn khiêm tốn” ; “học hỏi nhân dân” .
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà giáo dục vĩ đại, trong tư tưởng của Người về học tập suốt đời khái quát hết các lĩnh vực của học tập: trách nhiệm phải học tập; mục đích học tập, nội dung học tập và phương pháp, hình thức học tập suốt đời. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về học tập suốt đời còn nguyên tính thời sự và là cơ sở cho công tác xây dựng xã hội học tập ngày nay. |
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP HIỆN NAY
Quán triệt sâu sắc và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm nhất quán của Đảng về xây dựng xã hội học tập, tập trung vào những nội dung sau:
Xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân; là mục tiêu cơ bản nhằm tạo đột phá đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Đảng ta xác định, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”. Xây dựng xã hội học tập là một mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước ta. Việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo được tiến hành theo hướng mở, hội nhập, xây dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân. Xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập tạo môi trường thuận lợi để mỗi người dân đều có cơ hội được học tập theo nhu cầu, được thụ hưởng công bằng thành quả của nền giáo dục.
Nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là: Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời; Đổi mới cơ chế tài chính, đẩy mạnh xã hội hóa công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng công dân học tập, đơn vị học tập và tỉnh, thành phố học tập; Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời; Xây dựng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động.
Xây dựng xã hội học tập nhằm đột phá đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phấn đấu “đưa nước ta thành một quốc gia mạnh về giáo dục và đào tạo ở khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giới, tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế” ; “đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực” .
Học sinh Trường trung học cơ sở Đại Tâm thuộc huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) tranh thủ ôn bài trước khi vào tiết học mới. Ảnh: An Hiếu |
Xây dựng xã hội học tập nhằm nâng chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
Chỉ thị số 11-CT/TW Ngày 13/4/2007 của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập đã yêu cầu: “Vận động Nhân dân tích cực học tập nâng cao dân trí, nghề nghiệp, chuyên môn nhằm tăng năng lực sản xuất, chất lượng công việc, chất lượng cuộc sống. Gắn việc phát triển phong trào khuyến học, khuyến tài với xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, học đi đôi với hành, với phong trào làm kinh tế giỏi, xóa đói, giảm nghèo và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”. Kết luận số 49-KL/TW ngày 10/5/2019 của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X yêu cầu: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân, người lao động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ, lao động năng động, sáng tạo trong điều kiện nền kinh tế số hiện nay. Khuyến khích các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cơ sở giáo dục nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề và kỹ năng sống cho người lao động”.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số, xã hội số, văn hóa số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã định hướng: “Phát triển nhanh và bền vững, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số và coi đây là nhân tố quyết định nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”. Để đưa đất nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới, cần phải thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số để tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đẩy nhanh xây dựng xã hội số, tập trung vào chuyển đổi kỹ năng, mở các khóa học đại trà trực tuyến, đào tạo, tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng về công nghệ số và chuyển đổi số. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số để phát triển xã hội số.
Xây dựng xã hội học tập nhằm đào tạo công dân toàn cầu có kỹ năng số và ngoại ngữ; phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
Xây dựng xã hội học tập nhằm phát huy tối đa nhân tố con người; nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Phát triển văn hóa là một trong những vấn đề trọng tâm, một nội dung nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm của Đảng gắn việc phát triển phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập với xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở; với xây dựng đời sống văn hóa mới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII cũng đã xác định rõ: Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam; Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên; Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo: Đứng trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là "nền tảng tinh thần", "động lực phát triển", và "soi đường cho quốc dân đi"; phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI”.
Học sinh Khmer Trường Trung học phổ thông dân tộc nội trú Huỳnh Cương ở (phường 3, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng) trong giờ ra chơi. Ảnh: An Hiếu |
Tăng cường hợp tác quốc tế về công tác khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập.
Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị Khóa XI về hội nhập quốc tế có chủ trương lồng ghép các hoạt động hội nhập quốc tế trong quá trình xây dựng và triển khai chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảngkhóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chỉ đạo: Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
Ban Bí thư khóa XII đã kết luận:“Tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là đối với Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO); nghiên cứu, học tập, chia sẻ kinh nghiệm và tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế, các cơ quan nghiên cứu quốc tế về công tác khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập. Chủ động, tích cực tham gia mạng lưới "Thành phố học tập" do UNESCO điều hành.
Mở rộng, tăng cường liên kết đào tạo với những cơ sở đào tạo của nước ngoài có uy tín, đồng thời quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo. Khuyến khích việc học và nghiên cứu ở nước ngoài bằng nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Vận động đội ngũ trí thức tài năng là người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp với hoạt động khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII định hướng: “Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo”; “Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa, du lịch và các lĩnh vực khác”.
Việc xây dựng xã hội học tập, tự học suốt đời là xây dựng thói quen mới cho công dân; khắc phục bệnh thành tích, bệnh hình thức, tâm lý trọng thi cử, trọng bằng cấp trong giáo dục, đào tạo.
Xây dựng xã hội học tập thành công gắn với việc mỗi công dân ý thức được trách nhiệm của bản thân mình đối với việc tự học tập suốt đời. Mỗi công dân nhận thức được trách nhiệm của mình đối với công cuộc củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; từ đó có ý thức cập nhật tình hình thời sự; tự học tập, rèn luyện để khỏe mạnh hơn, có chất lượng sống tốt hơn, hạnh phúc hơn, hội nhập tốt hơn; chủ động hơn, có ý thức cảnh giác cao hơn để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Xây dựng xã hội học tập thành công gắn với việc mỗi công dân xác định đúng đắn mục đích tự học suốt đời là để không ngừng tiến bộ, để trở thành công dân toàn cầu. Học để thêm yêu nước, yêu Đảng; thêm tự hào về lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng. Học để có khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Học để tu dưỡng đạo đức bản thân, gia đình, dòng họ, để hiểu biết và xây dựng truyền thống văn hóa dân tộc. Học để tin tưởng vào tương lai đất nước, tin tưởng vào đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Học để làm việc tốt hơn và đểhưởng thụ thành quả lao động tốt hơn.
Xây dựng xã hội học tập thành công gắn với việc mỗi cấp ủy, tổ chức chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp xác định rõ các nội dung học tập suốt đời cho cán bộ, đảng viên, thành viên; phát động thi đua, đánh giá, biểu dương, khen thưởng. Mỗi cấp ủy, tổ chức chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp đều có chức năng, nhiệm vụ riêng, mục tiêu phát triển riêng nên có yêu cầu riêng đối với cán bộ, đảng viên, thành viên của mình. Nhìn chung, nội dung học tập mỗi cấp ủy, tổ chức chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp đều cần đảng viên, thành viên của mình không ngừng học tập về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp, kinh nghiệm làm việc và khả năng phối hợp trong tập thể để không ngừng nâng cao tính kỷ luật của tổ chức, năng suất lao động và phát huy sức mạnh tổng hợp.
Xây dựng xã hội học tập thành công gắn với tính tiên phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy trong việc không ngừng tự học tập, tự cập nhật tình hình thời sự; nghiên cứu lý luận chính trị; nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ; tích cực tuyên truyền, vận động người thân, gia đình, dòng họ tự học tập suốt đời; quyết tâm xây dựng thành công xã hội học tập, nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số để thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng./.
TS. Đỗ Thị Thanh Mai
Trung tâm Bồi dưỡng chính trị, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương