A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ Tăng tương phản Giảm tương phản

Tỉnh Hà Giang thực hiện đột phá phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn

CTTBTG - Những năm qua, Hà Giang được biết đến là điểm đến hấp dẫn, độc đáo, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Là tỉnh có vị trí địa - chính trị quan trọng ở biên giới địa đầu Tổ quốc, sở hữu cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, nguồn tài nguyên cho phát triển du lịch đa dạng và phong phú; Hà Giang hội tụ đầy đủ yếu tố tạo đột phá trong phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội.

Nguồn lực nội sinh

Nằm trong khu vực vùng núi phía bắc của Tổ quốc, tỉnh Hà Giang sở hữu nhiều ngọn núi cao, vách núi đá hiểm trở dựng đứng, những cánh rừng nguyên sinh đan xen với thung lũng thơ mộng tạo nên một quần thể kiến trúc vô cùng độc đáo và hùng vĩ. Hà Giang là mảnh đất có lịch sử lâu đời, là nơi quần tụ và sinh sống của 19 dân tộc, mỗi dân tộc mang những nét văn hóa đặc trưng riêng biệt, tạo nên sự đa dạng về văn hóa, tuy nhiên sự giao thoa đó không làm mất đi những nét độc đáo của mỗi dân tộc mà ngược lại hòa quện vào nhau, bổ trợ cho nhau tạo nên một quần thể đa văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.

Tính đến tháng 12-2022, toàn tỉnh có 91 di sản văn hóa, trong đó có 31 di tích, danh thắng được xếp hạng cấp quốc gia, 30 di tích, danh thắng xếp hạng cấp tỉnh. Trên địa bàn tỉnh hiện còn lưu giữ được 3 bảo vật quốc gia gồm: Bia chùa Sùng Khánh được tạo vào năm Đinh Mùi (1367) thời Trần, đời Vua Trần Dụ Tông đang được lưu giữ tại chùa Sùng Khánh, huyện Vị Xuyên; chuông chùa Bình Lâm được đúc vào năm Ất Mùi (1295) thời Trần, đời Vua Trần Anh Tông, đang được lưu giữ tại chùa Bình Lâm, huyện Vị Xuyên; đôi trống đồng Lô Lô có niên đại khoảng thế kỷ V, đang được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh. Tỉnh Hà Giang có 446 di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có 17 di sản về loại hình tiếng nói, chữ viết, 47 di sản ngữ văn dân gian, 12 di sản nghệ thuật trình diễn dân gian, 259 di sản tập quán xã hội và tín ngưỡng, 13 di sản lễ hội truyền thống, 41 di sản nghề thủ công và 57 di sản tri thức dân gian. Tính đến tháng 9-2021, tỉnh Hà Giang có 27 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục văn hóa phi vật thể quốc gia.

Cao nguyên đá Đồng Văn được công nhận nằm trong hệ thống mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu đã mang lại nhiều giá trị to lớn cho Hà Giang, nhất là về du lịch và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Ngoài Cao nguyên đá Đồng Văn trong top 10 điểm đến tuyệt vời nên khám phá ở Việt Nam do hãng truyền thông CNN (Mỹ) bình chọn, tỉnh Hà Giang còn sở hữu nhiều danh lam thắng cảnh làm mê đắm lòng người, những điểm du lịch nổi tiếng được người dân trong nước và bạn bè quốc tế đánh giá cao, như: Cột cờ Lũng Cú trên đỉnh núi Rồng, huyện Đồng Văn; đèo Mã Pì Lèng nối liền Đồng Văn với Mèo Vạc nổi tiếng bởi sự quanh co và hiểm trở; ruộng bậc thang ở Hoàng Su Phì; mùa hoa tam giác mạch huyện Mèo Vạc; Dinh thự họ Vương thuộc xã Xà Phìn, huyện Đồng Văn; chợ phong lưu Khâu Vai ở bản Khâu Vai, xã Khâu Vai… Bên cạnh đó, tỉnh Hà Giang có nhiều đặc sản nổi tiếng như: cam sành, chè shan tuyết cổ thụ, các sản phẩm làm từ hoa tam giác mạch… Nền văn hóa ẩm thực đa dạng, độc đáo, đậm đà bản sắc, có thể kể đến như: cháo ấu tẩu của đồng bào người Mông, rêu nướng của đồng bào dân tộc Tày, bánh chưng gù của người Dao Đỏ…

Thám hiểm di sản hẻm vực Tu Sản - danh thắng kỳ vĩ của tỉnh Hà Giang _Nguồn: vnexpress.net

Được bình chọn là 1 trong 10 điểm đến tuyệt vời nên khám phá khi đến Việt Nam, chứng tỏ tỉnh Hà Giang đang có được nguồn lực nội sinh phong phú phục vụ việc phát triển kinh tế - xã hội, đang đi đúng hướng trong việc phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo đột phá phát triển về du lịch chuyển hóa thành nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội.

Những kết quả nổi bật

Thực hiện mục tiêu phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thời gian qua, tỉnh Hà Giang ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chương trình thúc đẩy việc phát triển du lịch, như: Chương trình số 62-CTr/TU, ngày 29-3-2013, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, “Về phát triển văn hóa gắn với du lịch, giai đoạn 2013 - 2020”; Nghị quyết số 01-NQ/ĐH, ngày 29-9-2015, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XVI nhiệm kỳ 2015 - 2020, “Về xây dựng chương trình phát triển du lịch bền vững”; Chương trình hành động số 29-CTr/TU, ngày 24-7-2017, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, về “Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 16-1-2017, của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”; Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 2-8-2021, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, “Về phát triển du lịch Hà Giang giai đoạn 2021 - 2025”… Với sự lãnh đạo chỉ đạo kịp thời và quyết liệt của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, sự phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể và đặc biệt có được sự ủng hộ, đồng lòng của nhân dân, ngành du lịch tỉnh Hà Giang đã đạt được một số kết quả nổi bật.

Thứ nhất, các sản phẩm du lịch phát triển ngày càng phong phú, đa dạng, chất lượng dịch vụ du lịch được nâng cao.

Đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh đã xây dựng và đưa vào hoạt động được 35 làng văn hóa du lịch cộng đồng, trong đó có 15 làng văn hóa du lịch tiêu biểu, một số làng thu hút được lượng khách lớn đến tham quan (1). Đặc biệt, năm 2017, cơ sở homestay Dao Lodge ở thôn Nặm Đăm, xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ đã vinh dự được nhận danh hiệu “nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê đạt tiêu chuẩn ASEAN”, là một dấu ấn khẳng định về chất lượng và thương hiệu của dịch vụ cung ứng du lịch. Các lễ hội truyền thống gắn với phát triển du lịch được quan tâm, phát triển, tổ chức bài bản, thu hút được đông đảo du khách nội địa và du khách quốc tế. Một số lễ hội được tổ chức thường niên tạo được ấn tượng sâu sắc với du khách như: Lễ hội hoa tam giác mạch; tuần văn hóa di sản ruộng bậc thang Hoàng Su Phì; Festival Khèn Mông; ngày hội văn hóa các dân tộc;... đã trở thành thương hiệu của ngành du lịch Hà Giang có chỗ đứng vững chắc trên bản đồ du lịch Việt Nam. Nhiều dự án văn hóa, lễ hội được phục dựng, bảo tồn và duy trì hằng năm, như: Lễ hội nhảy lửa dân tộc Pà Thẻn, lễ hội Bàn Vương của dân tộc Dao, lễ hội Gầu tào của dân tộc Mông, lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày. Nhiều dự án bảo tồn và phát triển du lịch được triển khai đồng bộ, như: Dự án “Bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”; dự án “Phục dựng, bảo tồn một số lễ hội dân gian truyền thống các dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2016 - 2020” và “Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể dân tộc Bố Y”... Một số tuyến du lịch trải nghiệm, du lịch mạo hiểu được tiến hành khảo sát và đưa vào khai thác, như: Chinh phục đỉnh Tây Côn Lĩnh gắn với danh thắng quốc gia ruộng bậc thang Hoàng Su Phì; tuyến đi bộ ngắm cảnh đèo Mã Pì Lèng tại xã Pải Lủng và Pả Vi, huyện Mèo Vạc; làng du lịch cộng đồng đa trải nghiệm; khảo sát xây dựng tuyến đạp xe tại thôn Thiên Hương, Má Pắng; hoạt động giải trí, dã ngoại tại khu vực đường vách trắng tại Mã Pì Lèng; chèo thuyền kayak và du thuyền trên sông Nho Quế thám hiểm di sản hẻm vực Tu Sản; bay dù lượn trên Công viên địa chất; bay khinh khí cầu tại thành phố Hà Giang; nhảy dù, đu dây mạo hiểm ở Pa’ Piu…

Thứ hai, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ du lịch ngày càng đáp ứng được yêu cầu phát triển, đi vào thực chất.

Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên, lao động trong lĩnh vực du lịch ngày càng được nâng cao, có những bước chuyển mới tích cực. Đề án phát triển nguồn nhân lực du lịch của tỉnh Hà Giang đến năm 2025 được phê duyệt, các cấp, các ngành phối hợp thực hiện quyết liệt đã phát huy được tính hiệu quả. Hằng năm, ngành du lịch của tỉnh mở và duy trì từ 15-17 lớp tập huấn, đào tạo ngắn hạn về các lĩnh vực quản lý lưu trú, buồng, phòng, lễ tân, chế biến món ăn, dịch vụ du lịch tại các làng du lịch cộng đồng, tiếng Anh giao tiếp, hướng dẫn viên du lịch tại điểm của các doanh nghiệp du lịch và cơ quan quản lý nhà nước. Mỗi năm bổ sung được hơn 600 nhân lực phục vụ cho việc phát triển du lịch. Đến nay, tổng số lao động trong ngành du lịch trên địa bàn tỉnh là 12.000 người, trong đó lao động trực tiếp là 6.000 người, là nguồn lực quan trọng góp phần đưa du lịch tỉnh Hà Giang phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Thứ ba, công tác thông tin, quảng bá du lịch được đổi mới, mở rộng phạm vi và quy mô, nâng cao về chất lượng.

Thời gian qua, các hoạt động thông tin, tuyên truyền, quảng bá du lịch được thực hiện bằng nhiều hình thức vừa truyền thống, vừa đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số. Nội dung và hình thức quảng bá được đổi mới sáng tạo, hấp dẫn, thân thiện đã tạo được tính lan tỏa lớn, đặc biệt là chủ trương mỗi du khách là một tuyên truyền viên, quảng bá cho du lịch Hà Giang, đã thu hút được đông đảo du khách đến Hà Giang. Bên cạnh đó, tỉnh thường xuyên tổ chức và tham gia các chương trình, sự kiện thương mại - văn hóa - du lịch; tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo về phát triển du lịch có tính liên vùng và quốc tế, trong đó có hội nghị xúc tiến và không gian văn hóa du lịch Hà Giang tại một số tỉnh, thành phố trong nước, như: Cần Thơ, Khánh Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội…; chương trình xúc tiến du lịch - thương mại Hà Giang tại nước ngoài, như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Pháp, Nga… Thông qua đó, tỉnh giới thiệu các giá trị không gian văn hóa, con người và du lịch của Hà Giang tạo sức lan tỏa lớn, nhận được đánh giá cao của các ban, bộ, ngành Trung ương. Ngành du lịch còn chủ động phối hợp với các cơ quan hữu quan của Trung ương và tỉnh xây dựng phim quảng bá “Hà Giang những cung đường chân mây”; “Trái tim của đá”…; tổ chức thành công các lễ hội, sự kiện, hội nghị xúc tiến, quảng bá du lịch, kết nối và đề nghị Tổng Công ty Hàng không Việt Nam và Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam hỗ trợ truyên truyền, quảng bá hình ảnh du lịch của tỉnh trên các phương tiện thông tin, ấn phẩm, tạp chí, hệ thống pano tại các sân bay, nhà ga và trên các chuyến bay, chuyến tàu trong nước và quốc tế.

Thứ tư, tích cực trong việc đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút đầu tư trong phát triển du lịch.

Giai đoạn 2016 - 2020, tổng số vốn đầu tư cho các chương trình, dự án thuộc lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch của tỉnh là 1.256,072 tỷ đồng, trong đó, từ nguồn ngân sách trung ương là 646,829 tỷ đồng, từ nguồn vốn dự phòng chung ngân sách trung ương giai đoạn 2016 - 2020 là 45 tỷ đồng, từ nguồn vốn ngân sách địa phương đầu tư cho xây dựng Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn là 564,243 tỷ đồng. Nguồn ngân sách địa phương đầu tư xây dựng dự án là 93,052 tỷ đồng; nguồn xã hội hóa của doanh nghiệp, tư nhân đầu tư vào các khu du lịch sinh thái, cơ sở lưu trú, làng văn hóa du lịch cộng đồng ước đạt 500 tỷ đồng. Tỉnh đã cấp chủ trương đầu tư, giấy chứng nhận đầu tư cho 12 dự án thuộc lĩnh vực du lịch trên địa bàn tỉnh. Đến nay, một số dự án đã cơ bản hoàn thành và đi vào hoạt động tương đối có hiệu quả. Một số dự án lớn đã được chứng nhận đăng ký đầu tư và tiếp tục mời gọi hoàn thiện một số dự án đầu tư vào các khu du lịch trọng điểm. Ngoài ra, tỉnh còn chủ trương tạo cơ chế thông thoáng, ưu đãi, hỗ trợ kết cấu hạ tầng du lịch (điện, đường...), đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nhờ đó đã xây dựng và phát triển được hệ thống cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch có hiệu quả cao, nhiều hộ kinh doanh mạnh dạn đầu tư xây dựng và chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh theo mô hình doanh nghiệp, hợp tác xã.

Thứ năm, hợp tác liên kết vùng du lịch và xã hội hóa để phát triển du lịch được chú trọng, đã có những tín hiệu tích cực.

Tỉnh chú trọng và chủ động tham gia các hoạt động, sự kiện thường niên trong khuôn khổ chương trình hợp tác song phương, đa phương với các địa phương có thị trường du lịch tiềm năng và các tỉnh giáp ranh trong khối liên kết, đặc biệt là 6 tỉnh Việt Bắc và 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng. Nhiều hội nghị xúc tiến đầu tư nhằm mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia xây dựng các dự án phục vụ du lịch sinh thái gắn với khai thác lòng hồ thuỷ điện trên địa bàn tỉnh được tổ chức. Bên cạnh đó, tỉnh tham gia các hoạt động trong chương trình, lễ hội, liên hoan do Trung ương và khu vực tổ chức, ký kết với các đơn vị, địa phương hợp tác phát triển du lịch, xây dựng sản phẩm, xúc tiến quảng bá; kêu gọi các tổ chức phi chính phủ nước ngoài đóng góp vào chương trình an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo và phát triển du lịch gắn với phát triển bền vững tại địa phương; phối hợp với các đại sứ quán, cho phép phóng viên nước ngoài đến thực hiện ghi hình giới thiệu du lịch, văn hóa Hà Giang; chủ động liên kết, mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia nằm trong mạng lưới công viên địa chất toàn cầu nhằm kêu gọi đầu tư như Nhật Bản, Malaysia, Pháp, Đức, Canada, Australia,… tăng cường quan hệ hợp tác với các công viên địa chất khác trong khu vực và trên thế giới. Mở rộng thị trường phát triển du lịch quốc tế; ký kết hợp tác phát triển văn hóa, du lịch với tỉnh Vân Nam và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc); hợp tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch, tham gia các sự kiện văn hóa, du lịch lớn của nhau và cùng xây dựng, khai thác tuyến du lịch; tăng cường hợp tác về quản lý thị trường du lịch; giao lưu, trao đổi nghiệp vụ quản lý văn hóa, thể thao, du lịch trên cơ sở các biên bản thỏa thuận đã ký kết. Song song đó, tỉnh phối hợp tổ chức các đoàn doanh nghiệp du lịch sang khảo sát các tuyến du lịch và tổ chức diễn đàn trao đổi thông tin du lịch; triển khai Kế hoạch khảo sát xây dựng sản phẩm kết nối tuyến du lịch Hà Giang (Việt Nam) với Châu Văn Sơn, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Tỉnh cũng tích cực, chủ động tham gia chuỗi các hoạt động của Chương trình phát động thị trường du lịch tại Nhật Bản; thu hút nhiều nhà đầu tư các dự án lớn vào lĩnh vực du lịch và kêu gọi các tổ chức phi chính phủ nước ngoài đầu tư, viện trợ các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội vào Hà Giang.

Một số hạn chế, bất cập và giải pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, ngành du lịch tỉnh Hà Giang vẫn còn không ít hạn chế và bất cập, như: Hoạt động du lịch còn chủ yếu dựa vào tự nhiên, kết quả chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Quy hoạch và kết cấu hạ tầng về du lịch chưa thực sự đồng bộ, thiếu các điểm vui chơi, giải trí cho du khách, các hoạt động du lịch và dịch vụ du lịch ở một số nơi, một số điểm còn thiếu tính chuyên nghiệp. Sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chưa đủ sức cạnh tranh với thị trường du lịch ngày một phát triển, hấp dẫn của các tỉnh trong khu vực. Chất lượng nguồn nhân lực tuy đã được chú trọng đào tạo, bổ sung liên tục, song, so với yêu cầu phát triển thì vẫn còn thiếu và yếu. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành hoạt động trong lĩnh vực quản lý du lịch chưa chặt chẽ, đồng bộ, các cơ sở kinh doanh du lịch chưa chú trọng công tác xúc tiến quảng bá và tích cực chuyển đổi số về du lịch. Một số nơi chưa ý thức, quan tâm đúng mức về tầm quan trọng trong việc liên kết phát triển các sản phẩm du lịch...

Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trên là do một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo thu hút đầu tư phát triển du lịch. Cơ chế, chính sách khuyến khích hỗ trợ phát triển du lịch của tỉnh chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội theo từng giai đoạn. Cùng với đó, công tác quản lý hoạt động du lịch, dịch vụ du lịch vẫn còn nhiều hạn chế, chưa huy động được nhiều nguồn lực xã hội hóa đầu tư, phát triển cho du lịch. Công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch mới chỉ đáp ứng được nhu cầu về ngắn hạn mà chưa được quan tâm đúng mức về dài hạn. Các doanh nghiệp làm dịch vụ có quy mô nhỏ lẻ. Nhận thức của cộng đồng về phát triển du lịch còn chuyển biến chậm.

Để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, là khâu đột phá phát triển kinh tế - xã hội thời gian tới, tỉnh Hà Giang tiếp tục đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ, giải pháp quan trọng:

Một là, nâng cao nhận thức về phát triển du lịch. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về tầm quan trọng và vai trò của du lịch - nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Du lịch phát triển tạo ra nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo động lực cho các ngành, lĩnh vực khác phát triển, đem lại hiệu quả nhiều mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại và quốc phòng, an ninh. Cùng với đó, tiếp tục quan tâm, nâng cao ý thức, trách nhiệm của các doanh nghiệp và cộng đồng về phát triển du lịch trong thực hiện, tham gia các quy chuẩn về chất lượng sản phẩm du lịch, hình thành lối ứng xử văn minh, thân thiện, bảo vệ hình ảnh, môi trường, cảnh quan thiên nhiên, qua đó không ngừng nâng cao uy tín, thương hiệu và sức thu hút của du lịch Hà Giang.

Hai là, phát triển sản phẩm du lịch phong phú, đa dạng có tính cạnh tranh cao. Những năm tới, để nâng cao tính cạnh tranh của các sản phẩm du lịch trên địa bàn, Hà Giang tập trung xây dựng, phát triển thương hiệu riêng có dựa trên giá trị văn hóa truyền thống của 19 dân tộc, các di tích lịch sử, di sản, danh thắng, nhất là Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn, di tích cấp quốc gia ruộng bậc thang Hoàng Su Phì, các di tích văn hóa… Đồng thời, tiếp tục có chính sách phù hợp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của du khách nội địa và quốc tế. Các cấp chính quyền, doanh nghiệp và người dân căn cứ vào tiềm năng, lợi thế của địa phương để phát triển, đa dạng hóa các loại hình du lịch, tiếp tục thu hút, liên kết đầu tư, mở rộng thêm các sản phẩm du lịch hiện đại phục vụ đa dạng nhu cầu của du khách, khai thác hiệu quả thị trường khách du lịch nội địa, thu hút khách du lịch quốc tế đến Hà Giang.

Song song với việc tập trung phát triển du lịch gắn với nông nghiệp đặc trưng hàng hóa chất lượng cao theo chuỗi giá trị, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh việc khảo sát, đánh giá các lợi thế về những sản phẩm nông nghiệp đặc trưng của tỉnh để xây dựng các điểm du lịch phù hợp tham gia vào thị trường thương mại điện tử. Đồng thời, nâng cao chất lượng các làng văn hóa du lịch tiêu biểu gắn với việc gìn giữ văn hóa, tín ngưỡng truyền thống của đồng bào; bảo tồn và khôi phục các làng nghề thủ công truyền thống; khai thác và nâng tầm văn hóa ẩm thực của đồng bào các dân tộc thành sản phẩm du lịch độc đáo. Mặt khác, tăng cường thúc đẩy hợp tác phát triển du lịch trong liên kết vùng, kết nối thành phố Hà Giang với các huyện, các khu du lịch, khu vui chơi, nghỉ dưỡng cao cấp, thân thiện với môi trường, với các tỉnh trong khu vực và các thành phố lớn có tiềm năng du lịch trong cả nước. Đặc biệt, nghiên cứu chương trình hợp tác du lịch với tỉnh Vân Nam, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc).

Ba là, xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển du lịch, nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch. Tiếp tục nghiên cứu và ban hành các chính sách thúc đẩy phát triển du lịch theo hướng hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng, phát triển các sản phẩm du lịch độc đáo. Song song với đó là các chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào, trùng tu các di tích lịch sử, di sản văn hóa. Ban hành nhiều cơ chế đặc thù, hấp dẫn để thu hút đầu tư phát triển du lịch, tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng tham gia kinh doanh và hưởng lợi từ du lịch. Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ sản xuất hàng hóa đối với một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực, sản phẩm OCOP (Mỗi xã một sản phẩm) phục vụ du lịch.

Tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, xúc tiến đầu tư và quảng bá tiềm năng du lịch, ưu tiên chuyển đổi số cho ngành du lịch. Tăng cường quảng bá du lịch của tỉnh trên các nền tảng số, huy động tối đa các nguồn lực xã hội kết hợp nguồn lực của Nhà nước trong xúc tiến đầu tư, hình thành sản phẩm du lịch ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng hơn nữa công tác phối hợp, cung cấp thông tin, sản phẩm du lịch của tỉnh cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để triển khai các hoạt động thông tin đối ngoại, quảng bá du lịch Hà Giang.

Bốn là, tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng du lịch. Bảo đảm bố trí hợp lý nguồn ngân sách phát triển kết cấu hạ tầng du lịch đồng bộ, tập trung đầu tư hạ tầng giao thông tại khu vực có tiềm năng du lịch, đầu tư điểm dừng, nghỉ trên các tuyến đường bộ song song với nhiệm vụ đột phá về hạ tầng giao thông. Trong đó, chú trọng nâng cao khả năng kết nối giao thông tới các khu, điểm du lịch vùng Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn, quần thể danh thắng ruộng bậc thang Hoàng Su Phì, du lịch tâm linh, lịch sử huyện Vị Xuyên, Bắc Mê, Bắc Quang... Tỉnh tiếp tục đề xuất Chính phủ đầu tư xây dựng sân bay, đường cao tốc kết nối, bến thủy nội địa, bảo đảm thuận lợi kết nối cho khách du lịch.

Năm là, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch. Tiếp tục thực hiện nghiêm Luật Du lịch và các văn bản hướng dẫn để tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, tạo điều kiện thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững, đi đôi với việc quản lý, triển khai đồng bộ các quy hoạch về du lịch đã được ban hành. Đẩy mạnh công tác lập quy hoạch chi tiết các khu, điểm du lịch, chú trọng giữ gìn và bảo tồn kiến trúc bản địa, không phá vỡ cảnh quan môi trường trong đầu tư xây dựng hạ tầng du lịch. Gắn kết chặt chẽ giữa các quy hoạch do Nhà nước lập với xã hội hóa công tác quy hoạch.

Phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển du lịch, thu hút đầu tư vào du lịch, quản lý chặt chẽ nguồn tài nguyên du lịch, nhất là tài nguyên thiên nhiên. Nâng cao ý thức của nhân dân trong bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, môi trường; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, thực hiện nếp sống văn minh, có thái độ lịch sự, thân thiện đối với du khách. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát các hoạt động du lịch, dịch vụ du lịch, bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng, an toàn cho khách du lịch. Bên cạnh đó, tích cực đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước theo hướng đơn giản hóa, tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho các tổ chức, công dân trong việc đầu tư, kinh doanh du lịch./.

Anh Châu (Tạp chí Cộng sản)

----------------

(1) Năm 2020, thôn Nậm Đăm, xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ thu hút 8.500 lượt khách, doanh thu 1,8 tỷ đồng; thôn Hạ Thành, xã Phương Độ, thành phố Hà Giang thu hút gần 10.000 lượt khách, doanh thu đạt 1,5 tỷ đồng; thôn Lũng Cẩm, xã Sủng Là, huyện Đồng Văn đạt trên 4.000 lượt khách, doanh thu khoảng 500 triệu đồng; thôn Nậm Hồng, xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì thu hút khoảng 3.260 lượt khách, doanh thu ước đạt 1,6 tỷ đồng. Thu nhập bình quân các hộ làm dịch vụ du lịch (homestay) trung bình đạt 50 - 70 triệu đồng/năm, có những hộ đạt doanh thu gần 200 triệu đồng/năm.


Nguồn: Tạp chí Cộng sản
Thống kê truy cập
Hôm nay : 1.700
Hôm qua : 3.474
Tháng 03 : 83.190
Năm 2024 : 181.856