Tư duy đột phá về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng
BTGDV-Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một nội dung quan trọng trong các đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định bảo đảm cho phát triển nhanh và bền vững đất nước. Bài viết khái quát, phân tích những nội dung thể hiện tư duy đột phá về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, từ đó đề xuất những nội dung cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.

Buổi làm việc giữa Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội với UBND thành phố Hà Nội về thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tháng 4-2025_Ảnh: hanoimoi.vn
1. Mở đầu
Thành tựu của 40 năm đổi mới đất nước đã đưa Việt Nam bước vào “kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu”(1). Yêu cầu bao trùm trong kiến tạo kỷ nguyên mới là phải đột phá trong việc giải quyết triệt để những điểm nghẽn, những hạn chế, những khó khăn đang kìm hãm, cản trở sự phát triển của đất nước. Trong đó, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những đột phá chiến lược, là một nhân tố quyết định để thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
2. Nội dung
2.1. Tư duy đột phá về vai trò của phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Nội dung dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (sau đây viết tắt là dự thảo các văn kiện) đã thể hiện tư duy, tầm nhìn, những quyết sách chiến lược về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để Việt Nam vững bước tiến mạnh trong kỷ nguyên mới, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 khi Đảng ta tròn 100 năm thành lập; hiện thực hóa tầm nhìn phát triển đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1945 - 2045).
Một là, quan điểm thể hiện tư duy đột phá và toàn diện của Đảng là cần phải tập trung chuyển đổi cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; đẩy mạnh thu hút và trọng dụng nhân tài; khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, bảo đảm khách quan, dân chủ, thực chất, hiệu quả, nhất là công tác thẩm định, đánh giá cán bộ theo đúng chủ trương “có vào, có ra”, “có lên, có xuống”. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của hệ thống chính trị, nhất là cán bộ cấp chiến lược và cấp cơ sở thực sự tiêu biểu, có tư duy, năng lực quản trị tiên tiến, phù hợp với mô hình tổ chức mới và yêu cầu phát triển bứt phá của đất nước(2).
Hai là, tính đột phá tư duy về vị trí, vai trò của phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên phát triển mới được thể hiện ở quan điểm bảo đảm tính đồng bộ của thể chế phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với các thể chế khác. Theo đó, dự thảo các văn kiện trình yêu cầu tập trung hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, trong đó thể chế chính trị là then chốt, thể chế kinh tế là trọng tâm, các thể chế khác là rất quan trọng(3).
Như vậy, Đảng ta khẳng định, thể chế phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò rất quan trọng trong thể chế phát triển chung, góp phần vào việc tạo lập mô hình tăng trưởng mới, với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia là động lực chính và phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất.
Do vậy, Đảng ta đã xác định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần phải gắn kết và thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách, môi trường theo 4 chuyển đổi: Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực; thu hút, trọng dụng nhân tài, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới(4).
Ba là, tư duy đột phá về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên mới còn được thể hiện qua tiếp cận và xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển khoa học và công nghệ với phát triển nguồn nhân lực. Theo đó, để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần phải gắn kết hữu cơ với thể chế phát triển khoa học và công nghệ khi Đảng ta là coi chiến lược đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia là động lực chính cho phát triển đất nước. Để có thể vượt qua được điểm nghẽn về chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, dự thảo các văn kiện đã coi việc chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực là một trong những chuyển đổi cấp bách. Theo đó, cần tăng cường hợp tác công tư trong thu hút, đào tạo, trọng dụng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ chất lượng cao(5). Chủ động đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ; xây dựng mạng lưới đổi mới sáng tạo, thu hút chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài. Hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh, môi trường hoạt động sáng tạo cho đội ngũ chuyên gia, nhất là những chuyên gia giỏi, có nhiều cống hiến cho đất nước.
Cách tiếp cận này thể hiện tư duy mới, đột phát của Đảng so với tư duy phát triển biệt lập, vì nó buộc phải giải quyết các điểm nghẽn, nút thắt thể chế theo quan điểm liên ngành, toàn diện thay cho những can thiệp cục bộ, đơn tuyến dễ dẫn đến các hệ quả không mong muốn.
2.2. Về nhiệm vụ và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Một là, điểm mới nổi bật nhất là về cách thức thiết kế dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV, đó là lần đầu tiên Chương trình hành động của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thực hiện Nghị quyết Đại hội XIV là bộ phận cấu thành của Văn kiện Đại hội. Trong đó, chỉ riêng về các nội dung có liên quan đến nhiệm vụ, chương trình và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đã cho thấy dự thảo các văn kiện đã xác định rất toàn diện, thể hiện sự ưu tiên chiến lược với lộ trình và giải pháp tổng thể, khả thi để thực hiện các mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Cụ thể, với nhận thức sâu sắc, đầy đủ và thực hiện nhất quán quan điểm “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, quyết định tương lai dân tộc, giáo dục và đào tạo là nguồn gốc vững chắc để kiến tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, do đó, trước tiên cần ưu tiên, tập trung vào nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực, ngành, nghề trọng điểm, chiến lược(6). Hình thành các tổ chức, các nhóm nghiên cứu và triển khai mạnh, đạt trình độ khu vực và thế giới.
Hai là, dự thảo các văn kiện đã xác định rõ chủ thể chính trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân. Định hướng chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là thực hiện có hiệu quả các quyết sách chiến lược nhằm xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hoá và hội nhập quốc tế”(7). Để thực hiện các mục tiêu phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng, dự thảo các văn kiện đã chỉ ra những giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách, vừa có ý nghĩa trước mắt, vừa chiến lược, lâu dài. Về thể chế, chính sách, cần đổi mới và hoàn thiện đồng bộ hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về phát triển giáo dục và đào tạo, xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; Tiếp tục hiện đại hóa giáo dục đại học, có chính sách đột phá phát triển một số cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu trở thành các trung tâm khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ngang tầm nước tiên tiến; Đổi mới mạnh mẽ thể chế, tạo cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển giáo dục và đào tạo(8).
Ba là, về giải pháp, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và cạnh tranh nhân tài, nhân lực chất lượng cao trên phạm vi toàn cầu diễn ra ngày càng mạnh mẽ, để Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, dự thảo các văn kiện cũng đã xác định cần có hệ những giải pháp đột phá, có trọng tâm trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao khi xác định cần tập trung đào tạo theo chuẩn quốc tế, nhất là trong các ngành công nghiệp, công nghệ chiến lược. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về giáo dục, chia sẻ kinh nghiệm và tham gia vào mạng lưới học tập toàn cầu; thu hút mạnh mẽ các nguồn lực cho giáo dục; khuyến khích các nhà giáo, nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học trong nước; chú trọng thu hút các nhà khoa học giỏi, chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước, nhất là các ngành khoa học cơ bản và các lĩnh vực đặc biệt quan trọng; đẩy mạnh việc đưa cán bộ, học sinh, sinh viên đi đào tạo ở nước ngoài và thu hút sinh viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam(9).
2.3. Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung nội dung về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên mới
Dự thảo các văn kiện đã xác định đầy đủ, toàn diện mục tiêu, nội dung và chiến lược, chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Kỷ nguyên phát triển mới đòi hỏi Việt Nam phải chủ động kiến tạo một thế hệ nhân lực chất lượng cao mới, giỏi chuyên môn, có tư duy độc lập, có năng lực hội nhập toàn cầu và khả năng sáng tạo đột phá. Các đột phá chiến lược xác định từ Văn kiện Đại hội XIII của Đảng có giá trị chỉ đạo thực hiện cho cả giai đoạn 2021 - 2030, song để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước, trong nhiệm kỳ 2026 - 2030 để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần nhấn mạnh và tập trung hơn nữa vào những giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững
Phổ biến, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí quan trọng của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển đất nước nhanh và bền vững. Tăng cường các hoạt động tuyên truyền phổ biến, nâng cao nhận thức để toàn xã hội hiểu đúng, đầy đủ về vị trí, vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao để từ đó có sự ghi nhận và tôn vinh xứng đáng đối với những người tài có đóng góp lớn đối với sự phát triển của quốc gia và xã hội.
Gắn công tác đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao với xây dựng quy hoạch, chiến lược phát triển của các ngành, lĩnh vực, địa phương. Xây dựng công cụ để kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện các chủ trương, chính sách đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm phát hiện những khó khăn, vướng mắc, hạn chế phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện. Định kỳ đánh giá kết quả đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao để kịp thời giải quyết các vướng mắc, khó khăn.
Khuyến khích xây dựng và tổ chức thực hiện thí điểm các mô hình mới, hiện đại trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với bối cảnh phát triển mới ở trong nước cũng như quốc tế, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu phát triển của các địa phương, các ngành trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cụ thể.
Nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong thu hút, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực hiện khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh đối với các cấp, các ngành, địa phương trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm khuyến khích, thúc đẩy các chính sách được thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất, tránh tình trạng triển khai thực hiện hình thức, kém hiệu quả.
Thứ hai, tiếp tục có tư duy đột phá về trọng trách đào tạo nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, đội ngũ nhân tài, tinh hoa, chất lượng cao luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng và được coi là nguyên khí của quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Con đường đưa đất nước thoát khỏi yếu hèn, đó là phát triển giáo dục, bồi dưỡng nhân tài” và “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển thêm nhiều”(10).
Trong bối cảnh nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên khan hiếm trước xu hướng già hóa dân số; di động nhân lực khoa học - công nghệ ngày càng tự do hơn bởi lực hút từ các tập đoàn đa quốc gia và các nền kinh tế mới nổi; những thành tựu vượt bậc của khoa học - công nghệ cho phép lao động có thể làm việc từ xa, không bị cản trở bởi khoảng cách địa lý, visa lao động thay cho quốc tịch, v.v. đã trở thành những điểm hút mạnh các nhân lực chất lượng cao toàn cầu vào guồng quay của nó. Tất cả những yếu tố đó đã biến chiến lược đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao của các quốc gia trở thành “cuộc chiến nhân tài”.
Để đào tạo nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên mới, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, nhiệm kỳ 2026 -2030 cần quan tâm một số nội dung:
Tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện nhận thức về vị trí, vai trò của đào tạo nhân tài, nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên phát triển mới
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh, giáo dục - đào tạo cần thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số; cơ cấu đào tạo cần chú trọng theo hướng phù hợp với việc áp dụng mô hình kinh tế số, vừa hội nhập vừa giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; ưu tiên đầu tư, đào tạo đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao cho các ngành khoa học - công nghệ ưu tiên, mũi nhọn; đào tạo đội ngũ nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị quốc gia, quản trị địa phương và quản trị doanh nghiệp, v.v.
Theo nhiều chuyên gia, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, việc điều chỉnh thể chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực cần được xem xét linh hoạt, phản ứng kịp thời với tình thế, xu hướng mới. Do đó, cần tiếp tục hoàn chỉnh đồng bộ thể chế và chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam. Khi hệ thống thể chế, chính sách được thiết kế theo hướng: “Kiến tạo - đồng bộ - linh hoạt - hiệu quả”, thì sẽ thiết lập động lực phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo ra sự hài hòa giữa các bộ, ngành, địa phương. Thể chế và chính sách là tác nhân xác lập định hướng chiến lược phát triển nhân lực quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển sang kinh tế số(11).
Thực hiện đột phá trong phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài
Nhà nước cần có chiến lược đầu tư thích đáng cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học tinh hoa, giáo dục nhân tài. Phát huy vai trò của hệ thống trường phổ thông chuyên trong phát hiện và bồi dưỡng, đào tạo nhân tài. Đối với giáo dục đại học, cần xây dựng chính sách học bổng đặc biệt, toàn diện và cạnh tranh để thu hút học sinh, sinh viên giỏi; kiến tạo môi trường học thuật xuất sắc, thu hút nhân tài giảng dạy, đổi mới chương trình đào tạo theo hướng cá thể hóa, linh hoạt, kiến thức hiện đại, hội nhập quốc tế và phương pháp đào tạo liên ngành, tăng cường trải nghiệm thực tế và hỗ trợ khởi nghiệp và tạo việc làm.
Tiếp tục phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo để phát triển năng lực, kích thích tư duy sáng tạo và giúp cá nhân đạt được thành tựu trong học tập và nghiên cứu khoa học
Hiện nay, các đại học nghiên cứu ở nhiều quốc gia phát triển đang chuyển mình sang các đại học đổi mới sáng tạo, gắn kết và chuyển đổi mạnh mẽ các kết quả nghiên cứu với các công nghệ kỹ thuật mới và doanh nghiệp. Vì vậy, triết lý đào tạo nhân lực chất lượng cao trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phải là đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. Chương trình đào tạo phải chuyển đổi phù hợp với xu thế liên ngành, xuyên ngành của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Sinh viên tốt nghiệp không chỉ có việc làm, mà còn phải có tầm nhìn, có khát vọng đổi mới sáng tạo, tinh thần khởi nghiệp, phụng sự dân tộc, phụng sự nhân dân.
Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24-11-2023 Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới đã có những quan điểm dẫn dắt khi khẳng định: “Chú trọng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam cả trong và ngoài nước, có cơ chế, chính sách đột phá thu hút, trọng dụng trí thức, đặc biệt là trí thức tinh hoa, chuyên gia đầu ngành và nhân tài của đất nước”(12). Dựa trên mục tiêu phát triển, nền tảng văn hiến, giá trị văn hóa và con người Việt Nam, để tiếp cận và phát triển công nghệ mới, theo kịp với thế giới và làm chủ các công nghệ lõi, Việt Nam cần có chiến lược để tập hợp lực lượng trong và ngoài nước nhằm xây dựng bằng được các nhóm nghiên cứu mạnh, các trung tâm, viện nghiên cứu xuất sắc trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ chủ chốt cũng như ở các lĩnh vực mới phát sinh từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Nâng cao hiệu quả đầu tư cho đào tạo nhân lực chất lượng cao
Bên cạnh chiến lược đổi mới giáo dục, Việt Nam cần đầu tư đột phá cho đào tạo nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực then chốt của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như công nghệ thông tin, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, vật liệu tiên tiến, năng lượng mới và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghệ sinh học, y học, và xa hơn là đào tạo cả nhân lực chất lượng cao cho những lĩnh vực mới như: khoa học chính trị, quản trị, quản lý, pháp lý, công nghiệp văn hoá, nhân văn số, v.v.
Xây dựng, hoàn hiện và triển khai đột phá về cơ chế chính sách cho phát triển của các trường đại học
Các trường đại học đang trong quá trình chuyển mình theo xu thế tự chủ, sắp xếp tinh gọn, hiệu quả hơn. Tự chủ để phát huy tối đa các nguồn lực cho phát triển nhà trường và khởi nghiệp trong trường đại học. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý và thúc đẩy tự chủ đại học, hỗ trợ khởi nghiệp và giải pháp để triển khai mô hình 4 nhà: Nhà nước - Nhà trường - Nhà khoa học và nhà doanh nghiệp. Đặc biệt, cần tập trung xây dựng một số trường đại học đẳng cấp quốc tế về đào tạo và nghiên cứu khoa học đỉnh cao. Những trường đại học này đóng vai trò là trung tâm nghiên cứu và đào tạo hàng đầu, là “vườn ươm nhân tài” và nuôi dưỡng những thế hệ trí thức tinh hoa mới cho đất nước.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, tạo cơ chế hiệu quả trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Xây dựng cơ chế đột phá để đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao. Cơ chế này bảo đảm chủ trương, đường lối của Đảng được thể chế hóa thành các quy định pháp luật, đáp ứng nhu cầu về tuyển chọn và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Tiếp tục xem xét, nghiên cứu bổ sung quy định hướng dẫn về tiêu chuẩn, tiêu chí xác định nguồn nhân lực chất lượng cao. Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chí về nhân tài, phát hiện, sử dụng và thu hút nhân tài - nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với từng ngành, lĩnh vực.
Xây dựng cơ chế, chính sách để tăng cường năng lực cho các đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục, y tế, quốc phòng an ninh và các lĩnh vực trọng yếu khác nhằm đào tạo, cung cấp nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Áp dụng chế độ đãi ngộ vượt trội đối với nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, có thể đảm nhận các nhiệm vụ nghiên cứu công nghệ lõi trong các lĩnh vực trọng điểm của quốc gia, các nhân tài trong lĩnh vực chính trị, quản lý, quốc phòng an ninh, sáng tạo nghệ thuật.
Kiên quyết đấu tranh với các hành vi cản trở hoặc không thực hiện nghiêm chính sách, cũng như tình trạng tham nhũng, tiêu cực, cục bộ, khép kín, bè phái, “lợi ích nhóm”, “phường hội” trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
3. Kết luận
Tư duy đột phá về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV là sự vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới; là sự bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự kết nối logic giữa phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với thể chế phát triển khác sẽ tạo nên một hệ sinh thái phát triển nhanh, bền vững, không chỉ vạch rõ lộ trình mà còn huy động sức mạnh tổng hợp toàn xã hội, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045.
PGS, TS NGUYỄN VĂN CHIỀU
ThS NGUYỄN THỊ TUYẾT
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
ThS NGUYỄN GIÁP ĐÔNG
Ủy ban nhân dân xã Ba Vì, Thành phố Hà Nội
_________________
(1) Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề “Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, https://lyluanchinhtri.vn/, ngày 25-11-2024.
(2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9) Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam, tr.50-51, 21, 19, 30, 28, 28, 28, 29, https://lyluanchinhtri.vn.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.99.
(11) Minh Thư: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để xây dựng đất nước hùng cường, https://vov.vn, ngày 11-10-2025.
(12) Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 24-11-2023 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.



