A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ Tăng tương phản Giảm tương phản

Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành trong các cơ quan đảng, nhà nước và doanh nghiệp

CTTBTG - Trong những năm gần đây, thuật ngữ cơ sở dữ liệu (CSDL) đã trở nên quen thuộc trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước và doanh nghiệp. Việc ứng dụng tin học và công nghệ thông tin vào quản lý ngày càng nhiều và đa dạng ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, ngày càng nhiều người quan tâm đến thiết kế, xây dựng và ứng dụng hệ thống CSDL nhằm phục vụ tốt hơn công tác chuyên môn, nghiệp vụ.

 

Vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia.

Vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia.

Bối cảnh, tình hình xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành

Quyết định số 27-QĐ/TW, ngày 10-8-2021 của Ban Bí thư về việc ban hành Chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan đảng giai đoạn 2021-2025 nêu rõ mục tiêu tổng quát: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc và cải cách hành chính trong Đảng; tăng cường kết nối, trao đổi thông tin, dữ liệu, phát triển, nâng cấp các hệ thống thông tin, phần mềm ứng dụng, hỗ trợ tích cực, hiệu quả cho công tác tham mưu, thông tin, phục vụ và công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tại các cơ quan đảng, đồng thời, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin; đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan đảng phù hợp với Chương trình chuyển đổi số quốc gia”.

Tại Nghị quyết về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6-2021 và Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương (Nghị quyết số 75/NQ-CP ngày 14-7-2021), Chính phủ đã quyết nghị việc đẩy mạnh chuyển đổi số, trong đó, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tranh thủ thời cơ để đẩy mạnh chuyển đổi số trong bối cảnh đại dịch Covid-19; phát triển các loại hình thương mại, dịch vụ trực tuyến, tăng cường cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên địa bàn; thực hiện mạnh mẽ chuyển đổi số trong quản lý nhà nước, triển khai đồng bộ các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, thúc đẩy phát triển thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt.

Tại Nghị quyết về phiên họp Chính phủ trực tuyến toàn quốc với các địa phương về tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2021 (Nghị quyết số 88/NQ-CP ngày 12-8-2021), Chính phủ đã giao Bộ Thông tin truyền thông tập trung xây dựng và triển khai các giải pháp công nghệ phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19. Chính phủ cũng đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 (Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15-7-2021). Trong đó, giao Bộ Thông tin truyền thông chủ trì triển khai nội dung phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Ngày 2-9-2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg về việc đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030.

Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia đã được xây dựng, từng bước kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương. Đến tháng 12-2020, có 22/22 bộ, cơ quan ngang bộ; 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã có nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp bộ/tỉnh và kết nối với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia, đạt tỷ lệ 100%. Tổng số hệ thống đã kết nối với dữ liệu quốc gia là 220 hệ thống thông tin của 90 cơ quan, đơn vị; trong đó, có 85 dữ liệu cấp bộ/tỉnh của bộ, ngành, địa phương; 5 cơ sở dữ liệu và 9 hệ thống thông tin có quy mô, phạm vi từ Trung ương đến địa phương.

Thực tiễn quá trình xây dựng một số cơ sở dữ liệu

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cưBộ Công an đã vận hành chính thức Hệ thống CSDL quốc gia về dân cư từ ngày 1-7-2021. Bộ Công an đã thực hiện cấp số định danh cá nhân cho khoảng 98 triệu công dân thu thập vào CSDL quốc gia về dân cư; hoàn thành việc triển khai thí điểm phần mềm thuộc Dự án CSDL quốc gia về dân cư tại công an 16 tỉnh, thành phố. Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Thông tin và truyền thông, Bộ Tư pháp kết nối thành công CSDL quốc gia về dân cư với hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch của Bộ Tư pháp qua nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia để thực hiện cấp và huỷ số định danh cá nhân; thực hiện xác thực thông tin công dân theo yêu cầu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Từ cơ sở dữ liệu quan trọng này, Bộ Công an đã cấp mã số định danh cá nhân cho 100% công dân. Đồng thời đã triển khai thu nhận hơn 60 triệu hồ sơ cấp căn cước có gắn chíp điện tử với nhiều ưu điểm nổi bật cho công dân, đã in và trả hơn 50 triệu thẻ đến tay người dân… Bộ Công an cũng đã triển khai kết nối thử nghiệm thành công với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của một số bộ ngành và các tỉnh, thành phố trên cả nước. Đặc biệt, trong đợt cao điểm chống dịch vừa qua, Bộ Công an đã phối hợp với các bộ, ngành và địa phương triển khai các ứng dụng để kiểm soát đi lại, phòng chống dịch bệnh mang lại hiệu quả. Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư cũng góp phần tích cực trong việc bảo đảm an sinh xã hội cho hơn 43 triệu người. Việc tổ chức chiến dịch tiêm chủng thần tốc, lớn nhất trong lịch sử cho gần 100% dân số để Việt Nam “đi sau về trước” trong chiến lược vắc-xin…

 

Người dân đi làm căn cước công dân.

Người dân đi làm căn cước công dân.

Đối với chiến dịch cấp Căn cước công dân, Bộ Công an đã tổ chức hội nghị và có các văn bản chỉ đạo để thống nhất nhận thức thực hiện trong toàn quốc, giao chỉ tiêu cụ thể cho từng địa phương gắn với tận dụng tối đa số lượng máy móc, thiết bị được trang cấp. Trong đó tập trung thực hiện điểm tại 10 địa phương trọng điểm có đông dân cư, nhiều tạm trú (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Đồng Nai, Bình Dương, Thanh Hóa, Nghệ An, Bắc Ninh). Trong điều kiện dịch bệnh diễn biến phức tạp. Công an các địa phương nghiên cứu những cách làm sáng tạo vừa đảm bảo tiến độ thu nhận hồ sơ cấp thẻ Căn cước công dân, vừa đảm bảo an toàn chống dịch cho cả người dân đến làm Căn cước công dân và cán bộ làm nhiệm vụ.

Với những nỗ lực của cả hệ thống chính trị và sự chung tay, giúp sức của đông đảo quần chúng nhân dân, lực lượng Công an nhân dân đã chiến thắng trong chiến dịch đầy gian nan, thử thách này, tạo nên những chiến công hiển hách, được Đảng, Nhà nước và nhân dân vinh danh. Đến nay, Bộ Công an đã cơ bản hoàn thành theo tiến độ xây dựng, triển khai hai Dự án. Đã xây dựng được Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư hiện đại, kết nối đường truyền đến tận cấp xã, bảo đảm an ninh, an toàn, theo đúng nguyên tắc đã đề ra là "hiện đại, đồng bộ, bảo mật cao, tránh lãng phí". Việc xây dựng thành công Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và hệ thống sản xuất, cấp và quản lý căn cước công dân đã góp phần thúc đẩy xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.

Cơ sở dữ liệu về bảo hiểmCSDL quốc gia về Bảo hiểm là cơ sở dữ liệu của Chính phủ được xây dựng thống nhất trên toàn quốc, dùng chung cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm cung cấp chính xác, kịp thời thông tin về bảo hiểm phục vụ công tác quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu chính đáng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hiện nay, CSDL của bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam đang quản lý thông tin của toàn bộ người tham gia, thụ hưởng chế độ, chính sách BHXH, bảo hiểm y tế.

Theo thống kê, năm 2020, toàn Ngành BHXH Việt Nam tiếp nhận và giải quyết 87 triệu hồ sơ giao dịch điện tử, và khoảng 170 triệu hồ sơ đề nghị thanh toán chi phí khám, chữa bệnh liên thông trên hệ thống Giám định Bảo hiểm y tế. Từ tháng 1-2021 đến nay, cũng đã có 38,1 triệu hồ sơ giao dịch điện tử được tiếp nhận và giải quyết. Việc xây dựng các cơ sở dữ liệu này góp phần giúp Ngành BHXH Việt Nam thực hiện các biện pháp cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ, cũng như hiệu quả quản lý và cải cách hành chính phục vụ nhân dân, đáp ứng các yêu cầu xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số.

Hiện nay, BHXH Việt Nam tiếp tục tiến hành làm sạch, đồng bộ dữ liệu, bổ sung thông tin để làm giàu thêm CSDL chuyên ngành BHXH, sẵn sàng cung cấp dữ liệu cho CSDL quốc gia về bảo hiểm; tiếp tục kết nối, chia sẻ dữ liệu với Bộ Y tế, Tổng cục Thuế, Cục Việc làm (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội); Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tư pháp; kết nối, chia sẻ dữ liệu với CSDL quốc gia về dân cư để thực hiệc xác thực đối với toàn bộ nhân khẩu thuộc CSDL của phần mềm Cấp mã số BHXH và quản lý bảo hiểm y tế hộ gia đình; đã hoàn thành việc kết nối, cung cấp số liệu với Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia; đã hoàn thiện chức năng tổng hợp báo cáo số liệu hằng ngày, thông kê tình hình hỗ trợ nhóm đối tượng tại Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 7-7-2021 của Thủ tướng Chính phủ.

Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốcTừ tháng 10-2020 đến nay, Hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch dùng chung của Bộ Tư pháp đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với hơn 20.000 người dùng tại 10.933 UBND cấp xã, 710 phòng tư pháp và 63 sở tư pháp. Tính đến ngày 20-9-2021, Hệ thống đã có 20.028.021 dữ liệu đăng ký khai sinh, trong đó có 6.140.683 trẻ em được cấp Số định danh cá nhân theo Quy định; 3.960.437 dữ liệu đăng ký kết hôn; 2.759.011 dữ liệu đăng ký khai tử và 5.406.532 dữ liệu khác. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tiếp tục hỗ trợ các địa phương triển khai số hoá sổ hộ tịch; đồng thời, đang nghiên cứu, bổ sung đối với việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp huyện, xã trên Hệ thống thông tin đăng ký, quản lý hộ tịch.

Phần mềm này đã giúp giải quyết hầu hết các nghiệp vụ đăng ký hộ tịch theo Luật Hộ tịch trên hệ thống mạng, máy tính và được kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng dịch vụ công và Hệ thống một cửa điện tử cấp tỉnh. Do đó, người dân có thể thực hiện nhiều thủ tục đăng ký hộ tịch theo phương thức trực tuyến; lấy số định danh cá nhân cho trẻ em khi đăng ký khai sinh. Qua đó cung cấp nguồn thông tin hộ tịch đầu vào, cập nhật dữ liệu “sống” cho CSDL quốc gia về dân cư.

Bài học kinh nghiệm

Từ thực tiễn việc triển khai xây dựng một số CSDL nêu trên, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:

Một làCSDL cần bảo đảm luôn “đúng, đủ, sạch, sống”. Từ đó đòi hỏi phải bố trí nguồn nhân lực và ứng dụng công nghệ thông tin để thường xuyên cập nhật dữ liệu, bảo đảm dữ liệu đầy đủ, chính xác, phản ánh chân thực và phục vụ hiệu quả cho nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Hai là, quá trình xây dựng CSDL, lãnh đạo các cấp các ngành cần quan tâm chỉ đạo, quyết liệt, sâu sát, sáng tạo, bản lĩnh, đột phá, tâm huyết, trách nhiệm. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm, đề cao trách nhiệm người đứng đầu, đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ.

Ba là, phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các đơn vị trong và ngoài Ngành, tranh thủ kế thừa nguồn dữ liệu sẵn có, tận dụng, kết nối, chia sẻ dữ liệu thông tin bảo đảm đồng bộ, liên thông, thống nhất.

Bốn là, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, lồng ghép thực hiện đồng thời các dự án nhằm tiết kiệm, chống lãng phí về kinh phí, nhân lực và thời gian. Sử dụng tài nguyên thông tin, dữ liệu thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm, nhưng tài nguyên chuyển đổi số càng khai thác càng hiệu quả, càng phát triển.

Năm là, việc xây dựng CSDL cần chú trọng gắn kết chặt chẽ với bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng, an ninh quốc gia, bảo vệ thông tin cá nhân. Trong đó, công tác tổ chức kiểm tra, đánh giá, giám sát, bảo đảm an toàn, an ninh mạng cho các hệ thống thông tin cần tiếp tục được quan tâm thường xuyên.


Nguồn: Tạp chí Xây dựng Đảng
Thống kê truy cập
Hôm nay : 1.380
Hôm qua : 2.756
Tháng 04 : 73.760
Năm 2024 : 262.100