A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ Tăng tương phản Giảm tương phản

Đất nước với 93 mùa xuân có Đảng

CTTBTG - Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 3/2/1930 chính là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam, trở thành một trong những mốc son chói lọi nhất trong lịch sử dân tộc. Thực tế đã khẳng định, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không một tổ chức hay phong trào nào có thể thành công trong nỗ lực đấu tranh giải phóng dân tộc ta thoát ách thực dân, đế quốc.

Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 3/2/1930 chính là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam, trở thành một trong những mốc son chói lọi nhất trong lịch sử dân tộc. Thực tế đã khẳng định, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không một tổ chức hay phong trào nào có thể thành công trong nỗ lực đấu tranh giải phóng dân tộc ta thoát ách thực dân, đế quốc.

Suốt hơn một chục năm đầu sau khi Đảng được thành lập, theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên (năm 1930) của Đảng, những người cộng sản tiền bối tiếp tục dấn thân vào cuộc đấu tranh sinh tử, trải qua những năm tháng hoạt động cam go mà rất nhiều người bị giam cầm, đầy ải trong nhà tù đế quốc và rất nhiều người đã hy sinh; nhưng những đảng viên kiên trung còn sống vẫn bền gan theo đuổi mục tiêu giải phóng dân tộc. Nhờ thế, sự nghiệp cách mạng của Đảng, được nhân dân đồng tình và hết lòng ủng hộ, đã giành nhiều thắng lợi.

Năm 1945, ở tuổi mười lăm, chỉ với khoảng 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo toàn dân làm cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, giành lại độc lập cho dân tộc sau hơn 80 năm sống kiếp nô lệ dưới ách thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mà nay là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong mấy chục năm kể từ 1946, dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã dốc toàn lực để giành thắng lợi trong 4 cuộc chiến tranh vệ quốc (chống Pháp, chống Mỹ, bảo vệ biên giới Tây Nam, bảo vệ biên giới phía Bắc) và làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia.

Kể sao hết những mất mát, hy sinh mà Đảng và nhân dân ta phải gánh chịu trong suốt mấy chục năm trường chinh gian khổ để giành lại độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, bảo vệ non sông gấm vóc, kiến tạo hòa bình và dựng xây, phát triển đất nước.

Trải qua cuộc đấu tranh đầy cam go, mất mát và hy sinh, cũng như thực tiễn đầy thử thách trong những năm tháng cầm quyền, được nhân dân hết lòng tin cậy, ủng hộ, Đảng không ngừng lớn mạnh, thực sự trở thành một chính đảng dày dạn kinh nghiệm, với bề dày lịch sử ngót một trăm năm.

Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, những biến động chính trị đã khiến Liên Xô tan rã và toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu sụp đổ. Các thế lực phản động và các phần tử cơ hội chính trị khi ấy cũng thầm mong một kịch bản tương tự diễn ra ở Việt Nam. Nhưng đó chỉ là ảo mộng. Đảng ta vẫn vững “tay chèo”, đưa “con thuyền” xã hội chủ nghĩa Việt Nam vượt qua sóng cả…

Cho đến nay, không ai có thể phủ nhận vai trò quyết định của Đảng đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, cả khi cách mạng chưa thành công cũng như trong chiến tranh vệ quốc và trong sự nghiệp phát triển đất nước thời bình mà nhiều lúc cũng đầy cam go, thách thức.

Chủ trương Đổi mới được thông qua tại Đại hội VI năm 1986 của Đảng đã tạo bước đột phá mang tính chiến lược trong tư duy kinh tế và chính trị, khai thông bế tắc trong cách nghĩ và cách làm, mở ra đường hướng phát triển kinh tế - xã hội hợp với quy luật và hợp lòng người, tạo đà để đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với thành tựu năm sau luôn cao hơn năm trước.

Trong hơn ba thập kỷ sau quyết sách Đổi mới, kinh tế nước ta liên tục đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng, đưa Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp kể từ năm 2008. Trong giai đoạn 1986-1990 (thời kỳ đầu Đổi mới), tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn tiếp theo (1991-1995), tốc độ này đã tăng gần gấp đôi, lên 8,2%.

Các giai đoạn sau, nền kinh tế nước ta đều đạt mức tăng trưởng khá cao. Giai đoạn 2016-2019, chẳng hạn, mức tăng trưởng bình quân là 6,8% một năm, giúp Việt Nam lọt vào top 10 nước tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới. Quy mô nền kinh tế cũng tăng từ 6,3 tỷ USD năm 1989 lên hơn 343 tỷ USD năm 2020, vượt Singapore (337,5 tỷ USD) và Malaysia (336,3 tỷ USD), đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN (sau Indonesia, Thailand và Philippines).

Năm 2021, trong bối cảnh bộn bề khó khăn do dịch Covid-19 tiếp tục lan rộng, chúng ta cũng đạt mức tăng trưởng kinh tế dương (2,58%), trong khi đa phần các quốc gia phải chịu mức tăng trưởng âm.

Năm 2022, dịch Covid-19 được kiểm soát, những biến động địa chính trị và sự suy giảm kinh tế toàn cầu mà hậu quả là giá nhiên liệu và nguyên vật liệu tăng vọt, nhiều chuỗi cung ứng bị đứt gãy, lạm phát tăng cao ở hầu khắp các quốc gia… cũng tạo áp lực rất lớn đối với kinh tế nước ta.

Trong bối cảnh ấy, mức tăng trưởng kinh tế hơn 8% và kỷ lục kim ngạch xuất nhập khẩu 732,5 tỷ USD với mức thặng dư 11,2 tỷ USD đạt được trong năm 2022 đầy bất trắc là những con số làm nức lòng người, tạo đà để đất nước bước vào năm mới 2023 với nhiều kỳ vọng về những bước phát triển mới.

Những thành tựu to lớn về mọi mặt của đất nước trong mấy chục năm qua chính là niềm tin khoa học và căn cứ thực tiễn quan trọng để Đại hội 13 của Đảng thông qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, với mục tiêu đưa Việt Nam thành quốc gia đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 - kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, và thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 – kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Cả dân tộc đang hướng tới hai mốc kỷ niệm trăm năm, với niềm tin vào tiền đồ tươi sáng của đất nước, theo chiến lược phát triển mà Đảng đã định ra.

Từ khi thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn thể hiện rõ là một đảng cách mạng chân chính, có khả năng lôi cuốn quần chúng, hội tụ được sức mạnh của toàn dân, trở thành đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.

Đảng tuy là tổ chức chính trị bao gồm những thành phần tinh hoa, ưu tú nhất của giai cấp và dân tộc, nhưng cán bộ, đảng viên cũng là những con người cụ thể, bằng xương, bằng thịt, khó tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm, vì “nhân vô thập toàn”.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. 

Đảng ta từng mắc khuyết điểm, nhưng không giấu giếm và đã “có gan thừa nhận khuyết điểm của mình”.

Với bản lĩnh chính trị của một đảng cầm quyền, Đảng đã dũng cảm nhận trách nhiệm trước nhân dân về những yếu kém, khuyết điểm, thậm chí là sai lầm, như sai lầm trong cải cách ruộng đất giữa những năm 1950, hay yếu kém, khuyết điểm trong hoạch định các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội đầu những năm 1980, nhất là sai lầm trong cuộc tổng điều chỉnh giá – lương – tiền năm 1985, khiến đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, kéo dài đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước.

Đại hội VI năm 1986 đã thể hiện rõ bản lĩnh đó, khi Đảng dám, hay nói theo lời Bác Hồ là “có gan” nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, để sửa chữa những khuyết điểm, yếu kém và sai lầm trong hoạch định đường lối phát triển kinh tế - xã hội.

Năm 1986, nếu Đảng không có đủ bản lĩnh nhìn thẳng vào sự thật để thấy rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặng sửa chữa và phát động công cuộc Đổi mới theo tinh thần “cởi trói” tư duy, thì đất nước khó có thể phát triển được như ngày nay, nếu không nói là tiếp tục lún sâu vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, chịu mãi hậu quả tai hại của những chủ trương được hoạch định theo lối nghĩ duy ý chí, do bị “trói buộc” bởi tư duy ý thức hệ giáo điều.

Cuộc đấu tranh quyết liệt phòng chống tham nhũng và tiêu cực hơn một chục năm qua cũng thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng.

Đảng đã công khai khuyết điểm, kể cả các vụ vi phạm pháp luật, của hàng chục nghìn tổ chức đảng và hàng trăm nghìn đảng viên, cũng như những hình thức kỷ luật đối với các tổ chức đảng và cá nhân đảng viên có khuyết điểm, hoặc kết quả xử lý các vụ tham nhũng mà nhiều cán bộ, đảng viên phải chịu án tù, trong đó có không ít cán bộ cao cấp là ủy viên Trung ương Đảng, thậm chí là ủy viên Bộ Chính trị; đồng thời phân tích, làm rõ nguyên nhân của những khuyết điểm đó và đề ra các giải pháp khắc phục… Việc này không làm Đảng mất uy tín, mà càng thể hiện bản lĩnh của Đảng. Vì, theo lời Bác Hồ, “như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.

Chính những kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng và tiêu cực “không có vùng cấm” đã khiến nhân dân vui mừng và thêm tin tưởng vào quyết tâm sửa chữa khuyết điểm của Đảng.

Đất nước qua 93 mùa Xuân có Đảng đã biến đổi một cách thần kỳ, từ thân phận một xứ thuộc địa không có tên trên bản đồ thế giới, trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền, với các tiềm lực kinh tế - xã hội sánh ngang nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, với uy tín và vị thế quốc tế ngày càng được nể trọng.

Nhìn lại hành trình 93 mùa Xuân ấy, mới thấy Đảng ta thật vĩ đại.

 


Nguồn: vneconomy.vn
Thống kê truy cập
Hôm nay : 1.176
Hôm qua : 1.586
Tháng 12 : 41.346
Năm 2024 : 978.044