Triển khai đường lối đối ngoại của Đảng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam: Cơ hội và thách thức
Sau 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, đất nước ta hội tụ đủ thế và lực để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Cùng với nhiều lĩnh vực khác, trong kỷ nguyên mới của dân tộc, công tác đối ngoại cần tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, vươn lên những tầm cao mới để hoàn thành những trọng trách vinh quang mới, đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tổng Bí thư Tô Lâm dự Kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống Ban Đối ngoại Trung ương (01/11/1949 – 01/11/2024).
I. Yêu cầu mới đối với quá trình triển khai đường lối đối ngoại của Đảng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
1. Phải đóng góp hiệu quả hơn vào mục tiêu bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Bảo vệ an ninh Tổ quốc là bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo vệ cuộc số yên bình, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Theo nghĩa hẹp là phải giữ cho được môi trường hòa bình: không có chiến tranh, không có xung đột đến mức tác động tiêu cực tới phát triển kinh tế. Cao hơn nữa là phải tạo dựng và củng cố được cơ sở vững chắc, đủ sức để ngăn ngừa, hóa giải các thách thức, nguy cơ đối với an ninh Tổ quốc; nếu xảy ra xung đột thì đủ sức biến đại sự thành tiểu sự, tiểu sự thành vô sự. Hòa bình, an ninh, ổn định luôn là điều kiện tiên quyết của phát triển. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc ta, điều kiện này còn quan trọng hơn nữa. Nếu không bảo vệ được hòa bình, an ninh, ổn định, dù chỉ trong một thời gian ngắn, thì các nỗ lực vươn mình sẽ bị gián đoạn.
2. Phải đóng góp hiệu quả hơn vào mục tiêu phát triển của đất nước
Để đạt được mục tiêu đến năm 2030, 2045 đã được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định, về tăng trưởng, đất nước buộc phải đạt tốc độ tăng GDP bình quân 7%/năm liên tục trong 20 năm. Và để đạt được mục tiêu đó, phải tranh thủ được các nguồn lực từ bên ngoài, trước hết là công nghệ cao, thị trường xuất khẩu và vốn chất lượng cao. Theo đó, cần phải tạo dựng và củng cố một mạng lưới bạn bè, đối tác rộng lớn, bền vững, nhất là các đối tác có tiềm năng về công nghệ và thị trường, có lợi ích trùng hợp cơ bản và lâu dài trong quá trình Việt Nam vươn lên thành nước phát triển. Tiếp cận phát triển theo mô hình sản xuất thì đối ngoại phải đóng góp vào việc bảo đảm cho các nguồn đầu vào (công nghệ, thị trường, vốn, lao động kỹ thuật cao…) và nguồn đầu ra (thị trường luôn ổn định, không bị đứt gãy, bền vững trước những tác động từ môi trường bên ngoài). Đồng thời, phải đóng góp tích cực vào quá trình chuyền đổi ở trong nước, nhất là chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, để nâng cao mức độ và chất lượng tăng trưởng.
3. Phải nâng cao và củng cố vị thế quốc tế
Đất nước càng phát triển thì vị thế quốc tế càng quan trọng. Vị thế cao sẽ tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các đối tác. Vị thế cao cũng là điều kiện quan trọng để tiếp cận tới các nguồn công nghệ, nguồn vốn chất lượng cao với giá cả, chi phí phù hợp. Để gia tăng vị thế trong kỳ nguyên vươn mình của dân tộc, đối ngoại cần có cách tiếp cận mới trong việc thực hiện định hướng “thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, chủ động, tích cực, có trách nhiệm hơn trong các công việc chung của khu vực và quốc tế, sẵn sàng đóng góp nguồn lực, kể cả nhân lực là tài lực cho các công việc này.
Trong thúc đẩy các mục tiêu đối ngoại và xử lý các vấn đề nảy sinh trong quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác lớn, đối ngoại cũng cần phải sẵn sàng dấn thân bảo vệ các nguyên tắc được đông đảo các nước trong cộng đồng quốc tế thừa nhận và tôn trọng.
II. Bối cảnh thế giới và khu vực đến năm 2030
Thế giới chuyển dần sang cục diện đa cực với cấu trúc lưỡng siêu, đa cường. Lưỡng siêu là Mỹ và Trung Quốc, đa cường là các nước Ấn Độ, Đức, Nhật Bản, EU, Nga… Khoảng cách về sức mạnh giữa hai siêu cường và các cường quốc ngày càng lớn. Nhiều dự báo cho rằng, từ nay đến năm 2030, kinh tế Trung Quốc sẽ tăng khoảng 5%, Mỹ khoảng 2%, chậm nhất đến năm 2035, kinh tế Trung Quốc sẽ vượt kinh tế Mỹ. Các dự báo khác cho rằng, khoảng năm 2030, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ về GDP và chiếm khoảng 1/4 GDP toàn thế giới nhưng cần vài thập niên nữa để đuổi kịp Mỹ về GDP đầu người. Tính theo giá thị trường, GDP của Mỹ và Trung Quốc khi đó sẽ lớn gấp khoảng 3 lần GDP của nước lớn thứ ba. Về quân sự, đến năm 2030, ngân sách quân sự của Trung Quốc vào khoảng 550 tỷ USD, của Mỹ sẽ sớm vượt 1.000 tỷ USD, Ấn Độ là khoảng 183 tỷ USD, Nga là khoảng 123 tỷ USD. Và nếu coi mạng lưới đồng minh, mạng lưới căn cứ quân sự là một phần của sức mạnh thì Mỹ được cho là đang ở thế vượt trội so với Trung Quốc, Nga và các nước lớn khác. Về sức mạnh mềm, đến năm 2030, Mỹ được dự báo vẫn là quốc gia có sức hút mạnh nhất bởi các ý tưởng mới về lý thuyết phát triển, hệ thống giáo dục, nhất là giáo dục đại học, mạng lưới truyền thông. Trung Quốc và các nước khác đang và sẽ đầu tư lớn để gia tăng sức mạnh mềm nhưng khó có thể bắt kịp Mỹ.
Về quan hệ giữa các nước lớn, đến năm 2030, Mỹ - Trung Quốc vẫn là cặp quan hệ nổi trội, chi phối các mối quan hệ khác. Quan hệ Mỹ - Nga, EU - Nga sẽ tiếp tục căng thẳng; Trung Quốc – Nga hợp tác chặt chẽ trong nhiều vấn đề; Trung Quốc – EU thì tùy theo vấn đề, tùy theo thời điểm mà hợp tác hay cạnh tranh sẽ nổi hơn. Thế giới có thể phân thành hai tuyến với một bên là Mỹ, phương Tây và bên kia là Trung Quốc, Nga. Nhưng khác với hai phe thời chiến tranh Lạnh, ranh giới phân tuyến sẽ không rõ ràng, không cố định, các nước thuộc tuyến này vẫn có quan hệ với các nước thuộc tuyến kia. Quan hệ Mỹ - Trung Quốc vẫn có sự hợp tác, nhưng căng thẳng là xu thế nổi trội. Cho dù Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa nắm chính quyền, thì chính sách đối với Trung Quốc của Mỹ về cơ bản vẫn là “hợp tác khi có thể, cạnh tranh khi cần thiết, đối đầu khi bắt buộc”. Mỹ sẽ tiếp tục các cuộc chiến tranh thương mại, công nghệ với Trung Quốc. Ở chiều ngược lại, Trung Quốc sẽ nỗ lực giảm phụ thuộc vào Mỹ, đầu tư lớn cho phát triển công nghệ.
Cách mạng khoa học công nghệ phát triển với tốc độ ngày càng nhanh với sự xuất hiện của nhiều công nghệ đột phá. Nhiều viện nghiên dự báo sự phát triển có tính đột phá của hơn 10 loại công nghệ như: internet vạn vật, điện toán đám mây, công nghệ robot, xe tự hành, công nghệ sinh học, pin nhiên liệu, in 3D, công nghệ vật liệu mới…, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI).
Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Lễ ký Thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và Tập đoàn NVIDIA về hợp tác thành lập Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển về trí tuệ nhân tạo (AI) của NVIDIA và Trung tâm Dữ liệu AI tại Việt Nam.
Cùng với các tiến bộ khoa học công nghệ, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) sẽ phát triển mạnh mẽ hơn. Trong quan hệ quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi tương quan sức mạnh giữa các nước, nhất là các nước lớn, gia tăng mức độ cạnh tranh, chạy đua giữa các nước, gia tăng phân hóa giữa các nước giàu và nghèo. Cách mạng công nghiệp 4.0, cùng với cạnh tranh địa - chính trị giữa Mỹ - Trung Quốc và Mỹ, phương Tây - Trung Quốc, Nga, làm gia tăng xu thế phân mảng, chia rẽ, nhất là chia rẽ số giữa các nước, các nhóm nước.
Toàn cầu hóa vẫn tiếp diễn với những điểm khác các giai đoạn trước về tốc độ, phương cách và lĩnh vực. Từ nay đến 2030, toàn cầu hóa tiếp tục bị tác động mạnh bởi mâu thuẫn giữa các nước lớn, hậu quả của đại dịch COVID-19, các cuộc xung đột Nga - Ukraine, Hamas - Israel, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, biến đổi khí hậu... Phương cách và lĩnh vực toàn cầu hóa, theo đó sẽ khác trước. Thương mại quốc tế vẫn tăng. Theo dự báo năm 2021 của Ngân hàng Standard Chartered (Anh), đến năm 2030, thương mại toàn cầu tăng hơn 70%, lên đến trên 30.000 tỷ USD.
Quá trình dân chủ hóa quan hệ quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng bị thách thức nghiêm trọng hơn bởi chính trị cường quyền. Các nước vừa và nhỏ sẽ chịu sức ép “kéo” và “đẩy” mạnh hơn từ các nước lớn, nhất là trong các vấn đề các nước lớn có nhu cầu tập hợp lực lượng để cạnh tranh, đối đầu với nhau. Tiến bộ khoa học công nghệ và các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 thay đổi vị trí, vai trò của các nước vừa và nhỏ trong quan hệ quốc tế, kể cả trong quan hệ với các nước lớn.
Biến động dân số và lực lượng lao động làm thay đổi vị trí, vài trò các nước các khu vực. Đến năm 2030, Nam Á (gồm cả Ấn Độ) sẽ dẫn đầu về số dân, thứ hai là Châu Phi, tiếp đến là Đông Á (gồm cả Trung Quốc), rồi đến Đông Nam Á. Châu Âu sẽ rời xuống thứ sáu; Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Châu Á khác (trừ Nhật Bản) sẽ là thị trường chiếm ½ sức mua toàn cầu; người tiêu dùng trung lưu ở các thị trường mới nổi sẽ đông gấp năm lần so với ở Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản. Già hóa và suy giảm dân số, suy giảm lực lượng lao động tác động tiêu cực tới tăng trưởng của nhiều nước. Sau năm 2030, số người trên 65 tuổi ở Trung Quốc sẽ vượt quá số người từ 0-14 tuổi, và Trung Quốc sẽ là một trong những nước già hóa nhanh nhất thế giới. Trong khi Trung Quốc, Nga và tất cả các nước công nghiệp phát triển (OECD) đều bị tác động bởi già hóa, suy giảm dân số thì Mỹ là một ngoại lệ. Người nhập cư, nhất là những người tài đã và sẽ là nguồn bổ sung chất lượng cao cho lực lượng lao động Mỹ.
Hòa bình, hợp tác và phát triển gặp phải nhiều thách thức hơn trước nhưng vẫn là xu thế lớn. Hòa bình chỉ nên hiểu là không có chiến tranh giữa các nước lớn, còn chiến tranh, xung đột vũ trang thì khó có thể ngừng. Các nước lớn, ở mức độ khác nhau đều sở hữu vũ khí giết người hàng loạt và do đó, khó có thể xảy ra chiến tranh giữa họ với nhau. Các cuộc xung đột hiện nay giữa các nước nhỏ hay giữa nước lớn và nước nhỏ ít khả năng sớm chấm dứt. Một số xung đột mới có thể nổ ra. Nhưng rất ít khả năng các xung đột đó lan rộng hoặc leo thang tới mức xảy ra chiến tranh giữa các nước lớn, chiến tranh thế giới. Cạnh tranh giữa các nước lớn, xung đột Nga – Ukraine… làm gia tăng xu thế tăng cường vũ trang, thậm chí chạy đua vũ trang ở một số nước, nhóm nước. Nhưng các nước vẫn đầu tư lớn cho phát triển, cho giải quyết những thách thức trước mắt và lâu dài về kinh tế, xã hội, môi trường. Phát triển xanh, sạch, bền vững sẽ trở thành xu thế nổi trội do nhu cầu tự thân của các nước (trước nguy cơ từ biến đổi khí hậu) và sự áp đặt của các nước phát triển, nhất là các nước EU, thông qua những tiêu chuẩn về thương mại liên quan đến bảo vệ môi trường.
Các thể chế đa phương, lớn nhất và bao trùm nhất là Liên hợp quốc, có vai trò ngày càng suy giảm trong các vấn đề mà các nước lớn và đồng minh của họ muốn hành động đơn phương hoặc mâu thuẫn với các nước lớn khác. Nhưng trong các lĩnh vực nhân đạo, vai trò của các thể chế đa phương, đặc biệt là Liên hợp quốc, sẽ tiếp tục được củng cố và nâng cao. Thế giới càng nhiều xung đột, nhiều khủng hoảng thì nhu cầu cứu trợ nhân đạo càng gia tăng và các thể chế đa phương là kênh tốt nhất để các nước trao cho và thực hiện các công việc này vì các thể chế đa phương có hệ thống tổ chức, nhân sự, có kinh nghiệm và nhất là có “lòng tin” từ các nhà cứu trợ nhân đạo. Cũng như vậy, trong lĩnh vực phát triển và bảo vệ quyền con người, các cơ chế đa phương sẽ tiếp tục có vai trò quan trọng. Vai trò đó, không chỉ thể hiện trong việc thúc đẩy các mục tiêu phát triển bền vững, hỗ trợ các nước nghèo… mà còn trong đối phó với các thách thức chung của nhân loại, đặc biệt là dịch bệnh và biến đổi khí hậu.
Luật pháp và tập quán quốc tế vẫn có vai trò quan trọng trong quan hệ giữa các nước. Nhưng nhiều khả năng các nước lớn càng coi thường, càng lạm dụng luật quốc tế, nhất là các quy phạm mà họ cho là hạn chế sự tự do của họ, hoặc không phù hợp với lợi ích của họ. Cũng như vậy, trong nhiều lĩnh vực, vấn đề, luật pháp quốc tế cần được bổ sung, phát triển để con người đối phó với các thách thức mới như biến đổi khí hậu, AI…nhưng rất khó có thể thực hiện được vì không có được sự hợp tác cần thiết giữa các nước lớn[7].
Hệ thống các thể chế đa phương hiện hành đứng trước nhiều thách thức, các tổ chức, cơ chế mới sẽ ra đời. Do mâu thuẫn, cạnh tranh giữa các nước lớn và do nhân loại đứng trước các thách thức mới từ sự phát triển của khoa học công nghệ và của biển đổi khí hậu, các thể chế đa phương hiện tại sẽ tiếp tục thay đổi và xuất hiện các thể chế, cơ chế mới. Các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, nhất là Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đứng trước sức ép cải tổ ngày càng lớn, nhất là trước yêu cầu của Trung Quốc, Nga và các nước mới nổi. Các cơ chế đa phương theo nhóm như NATO, BRICS sẽ tiếp tục được củng cố. Nhiều khả năng, các cơ chế tương tự sẽ ra đời như hệ quả của xu thế phân tách, phân tuyến trong quan hệ giữa các nước lớn. Phần lớn các cơ chế này có thiên hướng chống lại nhau để phục vụ mục đích tập hợp lực lượng của các nước lớn. Các cơ chế đa phương của các nước nhỏ như: Phong trào Không liên kết, Nhóm 77, ngày càng suy yếu do các vấn đề nội bộ, do sự chia rẽ của các nước lớn và do bối cảnh quốc tế đã rất khác so với chiến tranh Lạnh, khi các cơ chế này ra đời.
Khu vực Ấn Độ - Châu Á – Thái Bình Dương (Ấn-Ấ-Thái viết tắt tiếng Anh là IAP) tiếp tục là khu vực phát triển năng động nhất thế giới. Theo một số dự báo, đến năm 2030, IAP - nơi có nền kinh tế lớn thứ nhất (Trung Quốc), lớn thứ ba (Ấn Độ) và lớn thứ tư (Nhật Bản) thế giới - sẽ chiếm 52,5% GDP toàn cầu. IAP tiếp tục là sân khấu chính của cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc. Các điểm nóng tiềm tàng ở khu vực tiếp tục tồn tại nhưng ít khả năng bùng nổ thành chiến tranh lớn. Một trong những nguyên nhân quan trọng là các bên liên quan chính đến các điểm nóng tiềm tàng ở khu vực đều có khả năng gây tổn hại đáng kể đến tính toán và chiến lược lớn của đối phương.
ASEAN có những khó khăn trong quá trình xây dựng Cộng đồng nhưng tiếp tục được các nước lớn quan tâm. Biển Đông vẫn tiềm ẩn bất ổn, thậm chí xung đột cục bộ, các nước ASEAN tiếp tục chịu sức ép (kéo và đẩy) từ các nước lớn và các tập hợp lực lượng của họ. Năm 2030, dự báo ASEAN sẽ là nền kinh tế lớn thứ tư thế giới, một Cộng đồng thành công nhất trong các liên kết khu vực của các nước đang phát triển.
III. Cơ hội và thách thức đối với quá trình triển khai đường lối đối ngoại của Đảng
1. Cơ hội
- Cơ hội hội lớn nhất là từ quá trình đổi mới toàn diện ở trong nước. “Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng, từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh”. Đây là nguồn lực, là động lực mạnh mẽ cho quá trình triển khai đường lối đối ngoại.
- Cơ hội lớn cũng đến từ quá trình hội nhập toàn diện, sâu rộng của đất nước vào khu vực và thế giới. Quyết tâm nâng cao hiệu quả các hoạt động hội nhập, nhất là hội nhập kinh tế quốc tế, nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế, cụ thể là các cam kết với 17 FTA, với COP21 về mục tiêu đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050… tiếp tục khẳng định vị thế, vai trò của đất nước ta trong dòng chảy phát triển cùng nhân loại.
Các sĩ quan của Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia Lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc.
- Cơ hội cũng đến từ những biến chuyển của cục diện khu vực và quốc tế như phân tích ở trên. Xung đột vũ trang, chạy đua vũ trang, tăng cường vũ trang có xu hướng mạnh lên nhưng hòa bình hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Khu vực Đông Á, Đông Nam Á vẫn là trung tâm tăng trưởng của thế giới. Với thế mạnh tương đối của mình, nhất là tiềm lực tích lũy được sau 40 năm Đổi mới, với mạng lưới bạn bè, đối tác rộng lớn, đặc biệt là 32 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, chúng ta có có cơ hội để tiếp tục tranh thủ được các dòng đầu tư, thương mại ở khu vực và toàn cầu, có cơ hội tranh thủ được công nghệ từ các đối tác phát triển.
- Quá trình vươn mình của dân tộc cũng là quá trình gia tăng quốc lực tổng hợp, đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định hơn, bền vững hơn và nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Theo đó, đối ngoại sẽ có cơ hội lớn hơn trong nhiệm vụ giữ gìn quan hệ tốt đẹp với các đối tác, nhất là láng giềng, các nước lớn, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định trong nước, cho dù khu vực và thế giới có biến động bất lợi.
2. Thách thức
- Thách thức lớn nhất có thể đến từ chính quá trình vươn mình của dân tộc. Để vươn mình thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển trong 20 năm tới, bên cạnh nỗ lực vượt bậc, cần có sự hy sinh rất lớn của cả một thế hệ. Nếu vươn mình không thành công, nội bộ ta không đoàn kết, kinh tế không phát triển thì đối ngoại không thể có hiệu quả.
- Thách thức cũng đến từ xu hướng diễn biến phức tạp của môi trường quốc tế, nhất là xu hướng phân tuyến, phân tách giữa một bên là Trung Quốc, Nga và bên kia là Mỹ và Phương Tây. Nếu xu hướng này phát triển đến mức “cực đoan” thì sẽ rất khó cho ta trong triển khai đối ngoại, nhất là trong định hướng làm bạn với tất cả, đứng ngoài cạnh tranh nước lớn.
- Thách thức có thể đến từ những diễn biến bất lợi từ tình hình các nước láng giềng, từ tình hình Biển Đông. Không để bị động, chúng ta cần chủ động chuẩn bị các phương án ứng xử nếu xảy ra những diễn biến bất lợi để giảm thiểu các tác động tiêu cực tới ổn định và phát triển của đất nước.
- Thách thức còn đến từ ASEAN khi các vấn đề nội bộ trong ASEAN, nhất là vấn đề Myanmar, khó có thể được giải quyết trong tương lai gần. ASEAN sẽ tiếp tục bị chia rẽ trong vấn đề Biển Đông, một số nước ASEAN sẽ tiếp tục bị các nước lớn lôi kéo.
- Cuối cùng là thách thức từ những diễn biến khó lường của kinh tế thế giới. Các nỗ lực thúc đẩy ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển có thể bị ảnh hưởng. Nhiệm vụ bảo đảm các nguồn cung chiến lược, nhất là công nghệ, vốn, nhân lực chất lượng cao và duy trì ổn định thị trường đầu ra cho sản phẩm Việt có thể sẽ khó khăn hơn trong các giai đoạn trước. Nếu khả năng chống chịu của nền kinh tế không nhanh chóng được cải thiện thì thách thức dạng này sẽ còn lớn hơn.
Tựu trung lại, trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, quá trình triển khai đường lối đối ngoại của Đảng có nhiều cơ hội và thách thức. Có cơ hội, thách thức đến từ tình hình bên ngoài, cũng có cơ hội và thách thức đến từ chính quá trình vươn mình của dân tộc. Bên ngoài là quan trọng, bên trong là quyết định. Triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại là góp phần vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ngược lại dân tộc vươn mình thành công lại tạo cơ sở vững chắc va động lực mạnh mẽ để đối ngoại thành công. Cùng với nỗ lực lớn, sự hy sinh lớn của cả dân tộc, đối ngoại cũng cần nỗ lực vượt bậc, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển của đất nước./.
PGS.TS. Đặng Đình Quý
Học viện Ngoại giao