A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ Tăng tương phản Giảm tương phản

Phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn góp phần phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

BTGDV- Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới, việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn trở thành nhiệm vụ chiến lược. Đây là lực lượng không chỉ tham gia vào việc truyền bá tri thức, xây dựng nền tảng tư tưởng - văn hóa của xã hội, mà còn trực tiếp đóng góp vào hoạch định chính sách, phản biện xã hội và dẫn dắt tư duy phát triển bền vững. Nhận diện đầy đủ vai trò, những “nút thắt” cản trở và đề xuất các giải pháp phát huy hiệu quả hơn nữa trí tuệ của đội ngũ tri thức chính là bước đi cấp thiết.

 

Tổng Bí thư Tô Lâm gặp mặt đại biểu trí thức, nhà khoa học toàn quốc, ngày 30-12-2024 tại Hà Nội_Ảnh: baochinhphu.vn

Vai trò đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn

Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi căn bản diện mạo, vị thế quốc gia. Góp phần vào những thành quả ấy là sự nỗ lực, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn (TTKHXH&NV) giữ vai trò quan trọng. Họ là những người luôn gắn bó mật thiết với thực tiễn đời sống xã hội, có tư duy phản biện khoa học và ý thức phát triển bền vững.

Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trí thức là “vốn liếng quý báu của dân tộc” - lực lượng nắm giữ tri thức, có vai trò đặc biệt trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Người không chỉ đánh giá cao vai trò của trí thức mà còn nhấn mạnh đến tính giai cấp và định hướng hành động cách mạng cho đội ngũ tri thức. Người căn dặn: “người trí thức chúng ta trở thành những người trí thức của giai cấp công nhân, hết lòng hết sức phục vụ công nông, góp phần xứng đáng và vẻ vang vào công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội”(1). Lời dạy ấy là sự kết tinh giữa yêu cầu về năng lực chuyên môn và bản lĩnh chính trị, là định hướng chiến lược trong việc xây dựng đội ngũ trí thức “vừa hồng vừa chuyên” - những người có phẩm chất đạo đức cách mạng, có trình độ khoa học vững vàng, luôn đồng hành cùng Đảng, sát cánh với nhân dân, vì sự nghiệp phát triển bền vững và độc lập, tự chủ của đất nước trong tình hình mới.

Một trong những nhiệm vụ trọng yếu của đội ngũ TTKHXH&NV hiện nay là tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng và trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh bùng nổ thông tin và diễn biến phức tạp của cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận, đội ngũ trí thức đã và đang khẳng định vai trò như những “chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng”, sử dụng “vũ khí” lý luận khoa học, đạo lý dân tộc và giá trị chân - thiện - mỹ để bảo vệ chân lý cách mạng, lan tỏa niềm tin và giá trị tích cực trong xã hội, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng - văn hóa của Đảng trong tình hình mới.

Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6-8-2008, của Hội nghị Trung ương 7 khóa X đã khẳng định sâu sắc: “Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển”(2). Quán triệt tinh thần đó, đội ngũ TTKHXH&NV đã và đang phát huy vai trò nòng cốt trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước. Không chỉ góp phần làm sáng tỏ các chủ trương, đường lối của Đảng, truyền bá tri thức, họ còn tham gia tích cực vào quá trình xây dựng, tư vấn, thực thi chính sách, phản biện xã hội, lan tỏa hệ giá trị quốc gia, đồng thời cung cấp những luận cứ khoa học xác đáng cho việc hoạch định các chiến lược phát triển đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc”(3), cho thấy tầm vóc và vị thế đặc biệt của lực lượng trí thức trong sự nghiệp cách mạng. Đội ngũ này bao gồm các nhà nghiên cứu, giảng viên, chuyên gia và nhà hoạch định chính sách đang hoạt động trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội học, văn hóa, lịch sử, cũng như trong các tổ chức phi chính phủ và tổ chức quốc tế. Nhiều công trình nghiên cứu cấp nhà nước do đội ngũ trí thức chủ trì đã góp phần thiết thực vào việc định hướng tư duy chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời đề xuất các giải pháp có tính khả thi cho các vấn đề xã hội đặt ra trong thực tiễn.

Trong bối cảnh chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, lực lượng trí thức trẻ ngày càng khẳng định vai trò nổi bật, tiên phong trong các lĩnh vực, như trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn, công nghệ giáo dục, truyền thông số và đổi mới sáng tạo…

Những “nút thắt” cần khơi thông

Mặc dù đội ngũ TTKHXH&NV ở nước ta đã có những đóng góp to lớn, đáng ghi nhận trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, song thực tiễn cũng cho thấy vẫn còn nhiều “nút thắt” đang cản trở việc phát huy tối đa tiềm năng, trí tuệ và sức sáng tạo của lực lượng đặc biệt này, cụ thể:

Thứ nhất, “nút thắt” về cơ chế quản lý và chính sách khuyến khích

Một trong những rào cản lớn đối với việc phát huy đầy đủ tiềm năng và trí tuệ của đội ngũ TTKHXH&NV hiện nay là sự bất cập trong cơ chế quản lý và chính sách khuyến khích nghiên cứu. Các chính sách về tự do học thuật, hỗ trợ sáng tạo khoa học và phát triển môi trường học thuật còn thiếu tính đồng bộ, chưa thực sự tạo động lực để đội ngũ trí thức yên tâm cống hiến, phát huy trí tuệ. Thủ tục hành chính trong xét duyệt, nghiệm thu đề tài khiến nhiều nhà khoa học tâm huyết rơi vào tình trạng “chạy theo thủ tục”, bị chi phối bởi yếu tố hành chính hơn là chất lượng học thuật.

Cơ chế đãi ngộ hiện hành chưa thực sự bảo đảm để đội ngũ trí thức, đặc biệt là các nhà khoa học trẻ, toàn tâm, toàn ý với công việc nghiên cứu. Nhiều người buộc phải tìm kiếm công việc bên ngoài để trang trải cuộc sống, từ đó làm giảm thời gian, năng lượng và hiệu quả dành cho hoạt động khoa học. Bên cạnh đó, sự thiếu liên kết giữa các cơ sở nghiên cứu và đào tạo với cơ sở ứng dụng - cả trong nước lẫn quốc tế - đang gây ra tình trạng phân mảnh, thiếu hợp tác, dẫn đến lãng phí nguồn lực và hạn chế khả năng tạo ra các sản phẩm khoa học có giá trị liên ngành, mang tính đột phá, tính thực tiễn cao.

Nghị quyết số 45-NQ/TW, ngày 24-11-2023, Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã chỉ rõ: “Việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức còn bất cập, hạn chế; một số nội dung của Nghị quyết chậm được thể chế; chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, đồng bộ; thiếu cơ chế, chính sách đột phá trong đầu tư, huy động nguồn lực, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng, tôn vinh trí thức…”(4). Những bất cập này không chỉ làm giảm nhiệt huyết của giới khoa học, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả và tính ứng dụng của các nghiên cứu trong đời sống xã hội.

Việc cải thiện căn bản môi trường nghiên cứu, tạo dựng hệ sinh thái khoa học lành mạnh, minh bạch và gắn kết sẽ là điều kiện tiên quyết để khơi dậy tinh thần cống hiến, nâng cao năng lực sáng tạo và bảo đảm chất lượng, tính ứng dụng của các công trình khoa học xã hội và nhân văn trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.

Thứ hai, “nút thắt” về tài chính và kết cấu hạ tầng nghiên cứu

Nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đòi hỏi nguồn kinh phí đáng kể để triển khai các đề tài chuyên sâu, tổ chức hội thảo khoa học, khảo sát thực địa và xây dựng cơ sở dữ liệu. Tuy nhiên, thực trạng đầu tư tài chính cho lĩnh vực này ở nước ta vẫn còn hạn chế cả về quy mô và tính ổn định. Điều này gây không ít khó khăn cho các nhà khoa học trong việc thực hiện các công trình nghiên cứu có chiều sâu và giá trị ứng dụng cao.

Bên cạnh đó, cơ chế huy động nguồn lực từ các tổ chức tài trợ quốc tế vẫn chưa phát huy hiệu quả. Nhiều nhà nghiên cứu thiếu thông tin, kỹ năng và sự hỗ trợ cần thiết để tiếp cận các chương trình tài trợ quốc tế - vốn thường yêu cầu kiến thức chuyên biệt và năng lực xây dựng hồ sơ phức tạp. Một số chương trình quốc tế cũng đòi hỏi điều kiện hạ tầng nghiên cứu đồng bộ như hệ thống thiết bị, phòng thí nghiệm, thư viện số và trung tâm dữ liệu hiện đại - những điều kiện mà nhiều viện nghiên cứu, trường đại học tại Việt Nam hiện nay chưa thể đáp ứng.

Thực trạng hạ tầng nghiên cứu lạc hậu, hệ thống thư viện và trung tâm lưu trữ dữ liệu còn nghèo nàn, không được cập nhật thường xuyên đã trở thành điểm nghẽn lớn, ảnh hưởng đến chất lượng học thuật và năng lực cạnh tranh quốc tế của đội ngũ TTKHXH&NV.

Thứ ba, “nút thắt” về khả năng ứng dụng thực tiễn của kết quả nghiên cứu

Một rào cản đáng lưu ý trong phát triển khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta hiện nay là sự thiếu gắn kết giữa hoạt động nghiên cứu và nhu cầu thực tiễn của xã hội. Không ít công trình nghiên cứu có giá trị lý luận và thực tiễn cao, song việc chuyển giao kết quả nghiên cứu thành các giải pháp chính sách cụ thể hoặc sản phẩm phục vụ cộng đồng còn hạn chế. Nhiều kết quả nghiên cứu vẫn dừng lại trên các ấn phẩm khoa học, chưa được áp dụng hiệu quả vào đời sống kinh tế - xã hội, dẫn đến lãng phí chất xám và làm giảm uy tín, tính lan tỏa của hoạt động khoa học.

Nguyên nhân chính là do hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và ứng dụng tri thức ở nước ta vẫn còn thiếu các thiết chế trung gian chuyên nghiệp. Các trung tâm chuyển giao tri thức, văn phòng liên kết đại học - doanh nghiệp - địa phương hoạt động chưa hiệu quả, thậm chí còn mang tính hình thức. Cơ chế, chính sách hỗ trợ kết nối nghiên cứu với thực tiễn còn phân tán, thiếu đồng bộ, chưa tạo ra động lực và khung pháp lý đủ mạnh để thúc đẩy mối liên kết giữa các nhà khoa học với cộng đồng thực hành - đặc biệt là khu vực sản xuất, quản trị địa phương và tổ chức xã hội.

Không ít nhà nghiên cứu vẫn coi việc công bố các bài báo khoa học - đặc biệt là trên các tạp chí quốc tế - là mục tiêu chủ yếu, trong khi lại chưa dành sự quan tâm đúng mức đến việc chuyển hóa các kết quả nghiên cứu thành giải pháp cụ thể phục vụ cộng đồng, doanh nghiệp và quản trị nhà nước. Cách tiếp cận này vô hình trung tạo ra một khoảng cách đáng kể giữa khoa học và thực tiễn, làm giảm hiệu quả xã hội và giá trị ứng dụng của các công trình nghiên cứu.

Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng tri thức và hiệu quả chính sách, việc nhận diện đầy đủ và tháo gỡ các “nút thắt” nêu trên một cách đồng bộ, căn cơ và có hệ thống là điều kiện tiên quyết để khơi thông dòng chảy tri thức, giải phóng năng lực sáng tạo, tạo động lực mạnh mẽ cho đội ngũ TTKHXH&NV phát triển. Đây cũng là tiền đề để lực lượng này tiếp tục đóng góp hiệu quả hơn nữa vào sự nghiệp xây dựng nền tảng tư tưởng - lý luận, củng cố giá trị văn hóa - xã hội, phục vụ sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa dự Lễ khai giảng năm học 2024 – 2025 của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, ngày 12-9-2024_Ảnh: TTXVN

Một số giải pháp trong thời gian tới

Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ quan điểm chỉ đạo về phát triển đội ngũ trí thức, trong đó nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng. Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”(5). Quan điểm này không chỉ thể hiện sự đánh giá đúng tầm đối với trí thức nói chung và đội ngũ trí thức TTKHXH&NV nói riêng, mà còn là định hướng chiến lược để giải quyết các “nút thắt” đang cản trở quá trình phát huy vai trò và đóng góp của lực lượng đặc biệt này trong bối cảnh mới.

Để hiện thực hóa định hướng đó, đồng thời tháo gỡ những “nút thắt”, cần tập trung triển khai đồng bộ một số giải pháp:

Một là, cải cách cơ chế quản lý để khơi thông động lực đổi mới học thuật

Cải cách căn bản cơ chế quản lý nghiên cứu theo hướng thúc đẩy sáng tạo và tăng cường tự chủ học thuật. Cần chuyển từ tư duy hành chính sang tư duy kiến tạo và phục vụ, tạo môi trường nghiên cứu cởi mở - nơi ý tưởng mới được khuyến khích, khác biệt học thuật được tôn trọng và các nỗ lực đổi mới được hỗ trợ tích cực.

Bên cạnh đó, cần đơn giản hóa thủ tục hành chính, minh bạch hóa quy trình xét duyệt và đánh giá đề tài, đồng thời thiết kế chính sách tài chính hợp lý để ổn định thu nhập, tạo động lực bền vững cho đội ngũ nghiên cứu - nhất là trí thức trẻ. Cải cách cơ chế quản lý không chỉ là tháo gỡ một “nút thắt” trước mắt, mà còn là nền tảng để xây dựng hệ sinh thái khoa học xã hội và nhân văn tự chủ, trách nhiệm, hiệu quả, gắn bó chặt chẽ với yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới.

Hai là, tăng cường đầu tư tài chính và kết cấu hạ tầng học thuật

Cần đẩy mạnh đầu tư đồng bộ về tài chính và kết cấu hạ tầng nghiên cứu. Các cơ sở nghiên cứu và đào tạo cần được trang bị hiện đại, có hệ thống thư viện số, trung tâm dữ liệu, học liệu mở và thiết chế hỗ trợ chuyển giao tri thức, đáp ứng yêu cầu hội nhập và nghiên cứu liên ngành.

Thiết lập các cơ chế tài trợ ổn định, dài hạn từ Nhà nước và xã hội để bảo đảm nguồn lực bền vững cho các nghiên cứu có giá trị thực tiễn cao. Việc đầu tư không chỉ nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, mà còn góp phần hình thành một hệ sinh thái học thuật gắn bó với đời sống, nơi đội ngũ trí thức thực sự đồng hành cùng dân tộc trong công cuộc đổi mới và phát triển bền vững.

Ba là, mở rộng hợp tác học thuật theo hướng liên ngành và tích hợp tri thức

Trong bối cảnh sự phức tạp và đan xen của các vấn đề xã hội hiện đại, khoa học xã hội và nhân văn cần được đặt vào thế đối thoại và cộng hưởng với các lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ, y tế… nhằm hình thành tư duy hệ thống và kiến tạo các giải pháp phát triển mang tính toàn diện.

Hợp tác liên ngành không chỉ là kỹ thuật tổ chức nghiên cứu, mà chính là phương thức mới để đổi mới tri thức. Việc hình thành các chương trình nghiên cứu tích hợp, các diễn đàn học thuật đa ngành, các không gian trao đổi chuyên môn liên lĩnh vực… là nền tảng để trí thức KHXH&NV tham gia sâu vào các sáng kiến quốc gia, vừa phản biện chính sách, vừa gợi mở hướng đi nhân văn và bền vững cho tiến trình phát triển.

Ở cấp thể chế, điều này đòi hỏi sự bảo đảm bằng các chính sách tài trợ linh hoạt, thủ tục hành chính đơn giản, đồng thời hình thành nhận thức mới trong hệ thống giáo dục và quản lý khoa học về vai trò thiết yếu của nghiên cứu liên ngành trong thời đại trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số và hội nhập toàn cầu.

Bốn là, nâng cao khả năng kết nối giữa nghiên cứu và thực tiễn đời sống xã hội

Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mạnh sang mô hình phát triển dựa trên đổi mới sáng tạo và quản trị hiệu quả, việc kết nối giữa nghiên cứu với thực tiễn không chỉ là một lựa chọn, mà là một tất yếu chiến lược. Mỗi đề tài nghiên cứu khoa học phải là một công cụ tư duy giải quyết vấn đề trong thực tiễn. Sự kết nối với doanh nghiệp, chính quyền, cộng đồng cần được chú trọng, đẩy mạnh theo hướng tư duy hành động. Hệ thống hỗ trợ, đánh giá và tài trợ cần được điều chỉnh tương ứng để khuyến khích những công trình tạo ra ảnh hưởng xã hội rõ nét, thay vì chỉ tích lũy công bố học thuật.

Cũng cần hình thành các thiết chế trung gian và có cơ chế, chính sách tạo điều kiện để các trung tâm chuyển giao tri thức, mạng lưới tư vấn chính sách, văn phòng kết nối đại học - cộng đồng - phát huy vai trò, nhiệm vụ cầu nối hiệu quả giữa nhà nghiên cứu và người thụ hưởng. Những “cầu nối” này không chỉ lan tỏa giá trị khoa học, mà định vị vị thế quan trọng của trí thức KHXH&NV trong hành trình phát triển đất nước.

Năm là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và kết nối mạng lưới tri thức toàn cầu

Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn là điều kiện để tiếp cận tri thức mới, phương pháp nghiên cứu hiện đại, là con đường để Việt Nam góp tiếng nói vào các diễn đàn học thuật toàn cầu, từ đó khẳng định vị thế và bản sắc học thuật riêng trong không gian tri thức thế giới.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế cần khắc phục hiện tượng chủ yếu tham dự các chương trình trao đổi, hội thảo quốc tế, mà cần được xác định là một trụ cột chiến lược trong chính sách phát triển KHXH&NV với các nhiệm vụ cụ thể tầm quốc gia. Điều đó bao gồm việc xây dựng cơ chế tài trợ linh hoạt, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, mở rộng mạng lưới liên kết học giả - đồng thời chú trọng vào những hợp tác chiều sâu với các trung tâm tri thức lớn, nơi có thể cộng hưởng giá trị tư tưởng, văn hóa và mô hình phát triển nhân văn của Việt Nam.

Hội nhập học thuật để tiếp thu và lan tỏa. Thông qua các hoạt động khoa học, giới thiệu với thế giới những giá trị văn hóa, lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và khát vọng phát triển dân tộc - từ đó gia tăng ảnh hưởng “quyền lực mềm” quốc gia một cách bền vững và sâu sắc trong thời đại toàn cầu hóa.

Sáu là, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả nghiên cứu dựa trên tác động xã hội

Một nền khoa học xã hội và nhân văn phát triển không thể thiếu cơ chế đánh giá phản ánh đúng giá trị tạo ra cho xã hội. Trong khi nhiều lĩnh vực khác có thể đo lường thành tựu bằng chỉ số kỹ thuật hay lợi ích tài chính, thì KHXH&NV cần được đánh giá bằng những đóng góp tư duy, tham vấn chính sách và nền tảng văn hóa - vốn là giá trị có sức lan tỏa lâu dài.

Vì vậy, cần hình thành một hệ tiêu chí đánh giá hiệu quả nghiên cứu dựa trên tác động xã hội, phản ánh được khả năng định hình nhận thức, can dự vào chính sách công, hỗ trợ quản trị xã hội, truyền cảm hứng văn hóa và góp phần cải thiện chất lượng sống cộng đồng. Không chỉ là công cụ quản lý, bộ tiêu chí này còn là đòn bẩy định hướng tư duy nghiên cứu mới: nghiên cứu không chỉ để công bố, mà là để phụng sự.

Việc xác lập thước đo phù hợp cho KHXH&NV chính là bước đi chiến lược để định vị vai trò của trí thức, khơi dậy động lực cống hiến, đồng thời kiến tạo một môi trường học thuật có trách nhiệm, gắn bó với thực tiễn, giàu cảm hứng phát triển và hàm lượng nhân văn sâu sắc.

Bảy là, phát triển các không gian sáng tạo học thuật tự chủ, dân chủ và trách nhiệm

Trong một thế giới đang chuyển động nhanh chóng, chỉ có những không gian nghiên cứu tự chủ, nơi trí tuệ được giải phóng và trách nhiệm được đề cao, mới có thể tạo ra tri thức có sức sống, có chiều sâu và gắn bó với thời cuộc. Việc thiết lập các trung tâm nghiên cứu có tính tự chủ cao cần được xem là ưu tiên chiến lược, đi kèm cơ chế pháp lý bảo vệ quyền học thuật, đồng thời thúc đẩy đạo đức nghề nghiệp và cam kết xã hội của giới khoa học. Ở đó, tinh thần tự do không tách rời khỏi tinh thần phụng sự - phục vụ Tổ quốc, phản ánh trung thực đời sống nhân dân, kiến tạo các giá trị nhân văn, tiến bộ.

Không gian học thuật như vậy không chỉ là nơi sản sinh tri thức mới, mà còn là nơi hình thành bản lĩnh tư tưởng, phẩm chất chính trị và trách nhiệm xã hội của đội ngũ trí thức. Đây chính là nền tảng để phát triển đội ngũ “vừa hồng vừa chuyên” - những người không chỉ hiểu biết sâu sắc, mà còn biết dấn thân và đồng hành cùng dân tộc trong hành trình phát triển.

Tám là, tích hợp khoa học xã hội và nhân văn trong chiến lược phát triển quốc gia

Điểm cốt yếu là phải đưa KHXH&NV vào quá trình thiết kế các chiến lược phát triển - từ kinh tế, xã hội, giáo dục đến môi trường, đô thị, văn hóa ngay từ giai đoạn đầu. Đây không chỉ là bảo đảm tính nhân văn trong chính sách, mà còn là định hướng cho sự phát triển bền vững, hài hòa giữa hiệu quả kinh tế và phát triển con người, phát triển xã hội.

Tư duy chiến lược cần bắt đầu từ con người và lĩnh vực KHXH&NV cung cấp hiểu biết sâu sắc về nhu cầu, động lực và hệ giá trị con người Việt Nam. Đó chính là cơ sở để mọi quyết sách lớn đều thấm đẫm tinh thần “phát triển vì con người”, như Đảng ta đã khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII: “Phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”(6)./.

TS Nguyễn Duy Quỳnh

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 243
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 67, tr. 792
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 184
(4) Xem: Nghị quyết số 45-NQ/TW, ngày 24-11-2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-45-nqtw-ngay-24112023-hoi-nghi-lan-thu-tam-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-ve-tiep-tuc-xay-dung-va-9941
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIINxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr. 167
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, t. I, tr. 231

 


Nguồn: Tạp chí Cộng sản
Thống kê truy cập
Hôm nay : 916
Hôm qua : 1.543
Tháng 07 : 916
Năm 2025 : 381.299