Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế qua nghiên cứu tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
PGS, TS. VŨ VĂN PHÚC
Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương
TCCS - Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đóng góp toàn diện, sâu sắc vào kho tàng lý luận của Đảng. Trong đó, tác phẩm đưa ra định hướng quan trọng qua việc giải quyết mối quan hệ cơ bản, cốt lõi giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế của Đảng ta qua các kỳ đại hội
Bước khởi đầu cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế của nước ta được đánh dấu bằng chủ trương thực hiện đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại được Ðại hội VII của Ðảng (năm 1991) thông qua. Đó là: “Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”(1), và “Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(2).
Ðại hội VIII (1996), Đảng ta quyết định: “Tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế đối ngoại, đẩy nhanh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới”(3). Phù hợp với xu thế toàn cầu hóa kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được đẩy mạnh, Ðại hội IX của Ðảng (năm 2001) khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”(4). Cũng tại Đại hội IX, lần đầu tiên vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế được đưa vào văn kiện của Đại hội với chủ trương gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trước hết là độc lập, tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh: có mức tích lũy ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành công nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ; giữ vững ổn định kinh tế - tài chính vĩ mô; bảo đảm an ninh lương thực, an toàn năng lượng, tài chính, môi trường... Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”(5). Với chủ trương này, nước ta tích cực tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời chủ động chuẩn bị các điều kiện trong nước về cơ cấu lại nền kinh tế, hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 27-11-2001, “Về hội nhập kinh tế quốc tế”, trong đó nhấn mạnh những nguyên tắc nhất quán chỉ đạo quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Ðể triển khai thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành kế hoạch hành động, phân công công việc cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương...
Đại hội X (năm 2006), Đảng ta xác định “Tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại...; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới”(6).
Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta đã chuyển từ hội nhập kinh tế quốc tế lên hội nhập quốc tế. Đây là điểm mới trong tư duy hội nhập quốc tế của Đảng ta. Đại hội XI của Đảng khẳng định quan điểm: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(7). Đây là một trong những luận điểm mới có tính chất kế thừa và phát triển trong đường lối đối ngoại của Đảng ta so với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác đã được Đại hội IX và Đại hội X của Đảng thông qua.
Đại hội XII (năm 2016), Đảng ta đưa ra chủ trương: “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế... đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế”(8).
Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta xác định rõ hơn nội hàm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế là: “Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế Việt Nam đã ký kết. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế”(9).
Như vậy, qua các kỳ đại hội Đảng, chủ trương, đường lối về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế có những bước phát triển phù hợp với tình hình thế giới và trong nước: từ hội nhập rồi chủ động hội nhập; tích cực và chủ động hội nhập, đến chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới...
Độc lập, tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập quốc tế có hiệu quả. Hội nhập quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ.
Xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ, trước hết là độc lập, tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh; có thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm nền kinh tế đủ sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế...
Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc; bình đẳng, cùng có lợi, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại; đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch...
Trong quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả hợp tác với bên ngoài; tăng cường vai trò và ảnh hưởng của nước ta đối với kinh tế khu vực và thế giới...
Việc triển khai thực hiện các quan điểm, chủ trương của Đảng về giữ vững và bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia và việc giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế đã đạt nhiều thành tựu và kết quả quan trọng: nhận thức của xã hội, các chủ thể tham gia hội nhập quốc tế, đặc biệt là các doanh nghiệp về sự cần thiết, những tác động hai chiều thuận - nghịch đan xen của hội nhập quốc tế đối với nền kinh tế, cũng như yêu cầu phải xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ đồng thời với việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế, đã được nâng lên và ngày càng đi tới thống nhất. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi vấn đề đặt ra để xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ trong điều kiện hội nhập quốc tế, đều đã được giải quyết...
Trong khi đó, sự phát triển của tình hình thế giới và trong nước lại tiếp tục đặt ra những vấn đề mới. Thực tiễn đó là một trong những yếu tố quan trọng để Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm về xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế.
Để hội nhập quốc tế thực sự hiệu quả, đưa đất nước phát triển, Đảng ta xác định phải xử lý hài hòa mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đều cùng hướng tới một mục tiêu chung là đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, nhằm làm cho thế và lực của đất nước được tăng cường, thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hai nhiệm vụ này gắn bó, tác động qua lại, có mối quan hệ biện chứng với nhau, là hai mặt của sự thống nhất, vừa có mặt thuận, vừa có mặt nghịch, vừa tạo đà, tạo thế cho nhau, vừa tác động không thuận chiều, thậm chí mâu thuẫn với nhau. Một mặt, có nội lực mạnh, có độc lập và tự chủ mới tạo vị thế và khả năng cho nước ta tích cực, chủ động hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế cũng mang “thế giới đến với Việt Nam”, mang lại công nghệ, kinh nghiệm quản lý, vốn, nhanh chóng bổ sung sức mạnh cho nội lực còn khiếm khuyết, thiếu hụt, rút ngắn con đường phát triển nhằm không ngừng tự hoàn thiện mình để giữ vững hơn nền độc lập, tự chủ, bảo vệ các lợi chính đáng của đất nước trong bối cảnh các quan hệ đa phương, song phương giữa các quốc gia, các tổ chức khu vực và quốc tế ngày càng phức tạp, đa dạng và chằng chịt. Hội nhập quốc tế càng chất lượng, nền kinh tế độc lập, tự chủ càng cao. Nền kinh tế độc lập, tự chủ càng cao, càng có điều kiện chủ động, tích cực hội nhập quốc tế...
Như vậy, hội nhập quốc tế trở thành định hướng lớn trong đường lối đối ngoại của nước ta để thu hút các nguồn lực bên ngoài, nuôi dưỡng, phát huy nguồn lực trong nước, biến ngoại lực thành nội lực, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đáp ứng được yêu cầu của đất nước trong quá trình phát triển theo định hướng đã lựa chọn, đồng thời phát huy vai trò, đóng góp của đất nước đối với hòa bình, phát triển của khu vực và thế giới...
Mặt khác, khi hội nhập quốc tế có nghĩa là chấp nhận những nguyên tắc, quy định, nghĩa vụ thành viên... do các chủ thể của luật quốc tế quy định. Đó là điều không thể không tính đến và không thể không ảnh hưởng khi xây dựng các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội... của đất nước, cũng như khi thực thi các chính sách đó...
Hội nhập quốc tế mang lại cho nước ta quyền và cơ hội, đồng thời phải thực thi nghĩa vụ và đối mặt với thách thức. Nước ta hội nhập quốc tế với rất nhiều nét đặc thù, trong đó khó khăn nhất là trình độ phát triển của nền kinh tế còn thấp, đất nước vừa thoát ra khỏi nhóm các nước nghèo và đứng trước nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” nếu không có các chính sách phát triển phù hợp. Bên cạnh đó, những hệ lụy của các cuộc chiến tranh kéo dài, tác động rất lớn đến đời sống xã hội, đến cuộc sống, tâm lý, nếp nghĩ của người dân, chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động và điều nguy hiểm nữa là những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang có những diễn biến phức tạp...
Những khó khăn trong việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế càng trở nên đậm nét hơn khi đặt trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động to lớn, nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo.
Những vấn đề mấu chốt về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế qua Tác phẩm
Trong tác phẩm của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”(10). Tổng Bí thư đưa ra một cách toàn diện, đầy đủ, sâu sắc những quan điểm, chủ trương, giải pháp nhằm giải quyết hiệu quả mối quan hệ này, trong đó có hai vấn đề sau:
Thứ nhất, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đột phá lý luận của Đảng ta trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế.
Một vấn đề có tính chất điển hình về “Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lốì, chiến lược phát triển kinh tế đất nước”, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”(11). Cả lý luận và thực tiễn chứng minh nhận định trên của Tổng Bí thư là hoàn toàn đúng đắn. Kinh tế thị trường (trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, khi mọi sản phẩm đều có thể trở thành hàng hóa) là sản phẩm của văn minh nhân loại, xuất hiện từ rất xa xưa, từ chế độ phong kiến, được phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản (CNTB), nhưng tự bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với CNTB. Nghĩa là, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của CNTB, mà kinh tế hàng hóa - nguồn nuôi dưỡng và xuất phát điểm của kinh tế thị trường - tồn tại trong nhiều chế độ xã hội khác nhau, song không có kinh tế thị trường chung, đồng nhất cho mọi chế độ xã hội khác nhau. Mặc dù, kinh tế thị trường là mô hình phát triển phổ quát, có những đặc điểm chung, có những giá trị, nguyên tắc, chuẩn mực chung, vận động theo những quy luật chung..., nhưng ở mỗi quốc gia, kinh tế thị trường có sắc thái riêng, có dấu ấn riêng về lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội, truyền thống... Trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường mang những đặc trưng, bản chất khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất, vào bản chất chính trị của chế độ xã hội đó, phù hợp với lịch sử, văn hóa, tập quán của từng quốc gia, dân tộc. Mặc dù, những quy luật kinh tế chi phối sự vận động, phát triển của nền kinh tế thị trường là khách quan, có những yêu cầu tất yếu như nhau, nhưng quan điểm, tập quán, thói quen vận dụng những quy luật kinh tế khách quan đó trong mỗi quốc gia là khác nhau. Không thể có nền kinh tế thị trường ở nước này lại là bản sao của kinh tế thị trường ở nước khác. Trên thế giới có nhiều mô hình phát triển kinh tế thị trường như, kinh tế thị trường tự do ở Mỹ, kinh tế thị trường xã hội ở Đức, kinh tế thị trường cộng đồng trách nhiệm (hay phối hợp) ở Nhật Bản, kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển, kinh tế thị trường XHCN đặc sắc Trung Quốc... Lần đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường xuất hiện mô hình kinh tế thị trường mới - kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây thực sự là “một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta”. Qua thực tiễn hơn 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, một thành quả lý luận quan trọng được khẳng định: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là hoàn toàn đúng đắn, là sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta và là con đường, phương thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên đất nước ta. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế là nền kinh tế quá độ, không thể có ngay kinh tế thị trường XHCN, nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN - mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH - vừa tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường của thế giới, vừa vận dụng, phát triển sáng tạo cho phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là một thể thống nhất bao gồm hai mặt gắn bó biện chứng hữu cơ với nhau là kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; đồng thời, bảo đảm định hướng XHCN nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực, nguồn lực phát triển... “Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”(12).
Kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển đồng bộ, toàn diện trong cả bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Các thành phần kinh tế hợp tác, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành hữu cơ quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng tồn tại, phát triển lâu dài. Các thành phần kinh tế được bình đẳng trong huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực phát triển và trách nhiệm, nghĩa vụ đối với đất nước, đối với xã hội. Phân phối các nguồn lực đầu vào cho sản xuất và phân phối sản phẩm làm ra bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch và tạo động lực cho phát triển. Ở nước ta hiện nay, thực hiện chế độ phân phối với nhiều hình thức, chủ yếu là phân phối theo lao động, theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách... Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội... Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(13)...
Thực tiễn qua hơn 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, “trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước”(14), “kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”(15). Đó là những thành tựu không thể phủ nhận, mặc dù trong thực tế, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục hoàn thiện...
Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ là vấn đề mang tính tất yếu của công cuộc đổi mới, mà còn là sự đúng đắn về nguyên tắc, quan điểm của Đảng, đồng thời là đòi hỏi của thực tiễn đất nước với điểm xuất phát thấp đi lên CNXH như Việt Nam; không chỉ là nền móng bảo đảm độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, mà còn là điều kiện căn bản và môi trường rộng mở tối ưu bảo đảm cho sự phát triển năng động, mạnh mẽ và bền vững của nền kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và vì mục tiêu tiến bộ xã hội, xét trên cả hai bình diện đối nội và hội nhập quốc tế một cách chủ động, hiệu quả. Đó cũng là sự thể hiện ưu thế tuyệt đối của chế độ xã hội ta khi xem kinh tế thị trường chỉ là phương tiện, công cụ hữu hiệu để xây dựng CNXH nhằm phục vụ nhân dân so với các chế độ xã hội khác cũng phát triển kinh tế thị trường...
Thứ hai, phát huy sức mạnh tổng hợp cả nội lực và ngoại lực trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không phải là xây dựng nền kinh tế khép kín, đóng cửa, mà là nền kinh tế mở, gắn với hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh tổng hợp, cùng chiều của nội lực và ngoại lực... Trong tác phẩm của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”(16); “Ý chí tự lực, tự cường và nội lực là quyết định, cơ bản, lâu dài; sự ủng hộ, giúp đỡ và nguồn lực từ bên ngoài là vô cùng quan trọng”(17); “huy động và kết hợp có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước để phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”(18). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Ưu tiên tìm kiếm và mở rộng thị trường cho hàng hóa, dịch vụ và lao động Việt Nam, thu hút nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý, nhất là FDI hướng vào các lĩnh vực ưu tiên của đất nước. Tích cực cùng các nước thúc đẩy đàm phán, ký kết, phê chuẩn và thực hiện các thỏa thuận FTA đa phương; nghiên cứu khả năng tham gia các sáng kiến đa phương trong khu vực về kết nối kinh tế và phát triển kết cấu hạ tầng; tiến hành đàm phán các FTA song phương thế hệ mới với các nước, nhất là với các đối tác thương mại lớn”(19).
Để thực hiện thành công mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đề ra, cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong điều kiện toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, phải có vốn, công nghệ, cán bộ khoa học, công nhân lành nghề, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hội nhập thị trường thế giới và thị trường khu vực,... Những vấn đề này không thể giải quyết được nếu nước ta chỉ dựa vào nội lực và càng không thể thực hiện được nếu chỉ dựa vào ngoại lực, phải khéo léo sử dụng sức mạnh tổng hợp của cả nội lực và ngoại lực. Nội lực đóng vai trò quyết định, là nguồn trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đưa đất nước đi lên. Ngoại lực đóng vai trò quan trọng. Nền kinh tế thế giới hiện nay có xu hướng trở thành nền kinh tế thị trường thế giới thống nhất, nền kinh tế mỗi nước là một bộ phận, trong điều kiện đó, nền kinh tế nước ta muốn phát triển được không thể không gắn với nền kinh tế thị trường thế giới và khu vực. Vấn đề đặt ra là, giải quyết mối quan hệ giữa phát huy nội lực với mở rộng hội nhập quốc tế để tranh thủ khai thác ngoại lực như thế nào?
Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu sáng lập, đã lựa chọn con đường đúng đắn là đi lên CNXH. Đảng và nhân dân ta nắm vững và quán triệt sâu sắc phương châm: giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; động viên cao độ nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài; xây dựng một nền kinh tế độc, lập, tự chủ, mở cửa, hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời phải chú ý tới những hàng hóa trong nước có khả năng sản xuất và sản xuất có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thị trường nội địa và nhu cầu của nhân dân. Nội lực càng mạnh, càng khai thác được nhiều hơn, hiệu quả hơn ngoại lực; trên cơ sở đó mới có thể giữ vững được độc lập, tự chủ của đất nước. Chính vì vậy, có thể khẳng định: phát huy nội lực xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trở thành yêu cầu cơ bản của công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta. Do đó, để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, vấn đề có tính quyết định sống còn là phải khơi dậy và phát huy tối đa các nguồn nội lực, khai thác mọi lợi thế so sánh của đất nước làm ra những hàng hóa xuất khẩu, thu ngoại tệ, nhập khẩu những hàng hóa, tư liệu sản xuất trong nước không có điều kiện sản xuất hoặc sản xuất không có hiệu quả. Thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại để chuyển việc sản xuất những hàng hóa trong nước có lợi thế so sánh để đổi lấy tư liệu sản xuất phục vụ cho tái sản xuất mở rộng ở trong nước. Hơn nữa, nội lực còn là nguồn đối ứng để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả ngoại lực, biến ngoại lực thành nội lực. Nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế trở thành nhân tố quan trọng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế...
Trong tác phẩm của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tổng kết: “Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”(20).
Hiện nay, chúng ta đang triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và tin tưởng chắc chắn rằng: chúng ta sẽ hoàn thiện đồng bộ, nâng cao chất lượng thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của nội lực kết hợp với sức mạnh của ngoại lực. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, đạt mục tiêu đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao./.
-------------------
(1), (2), (3) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, phần I, tr. 410, 336, 808
(4), (5), (6), (7), (8) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Sđd, phần I, tr. 935, 914, 187, 434 - 435, 691
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 135 - 136
(10), (11) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn vể chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 191, 25
(12) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn vể chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 26
(13), (14), (15) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn vể chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 26 - 27, 30, 33
(16), (17), (18), (19) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn vể chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 49, 191, 191, 196
(20) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn vể chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 37