A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ Tăng tương phản Giảm tương phản

Phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975

BTGDV - Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 thắng lợi là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó đại đoàn kết toàn dân tộc có vai trò quyết định. Kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đòi hỏi sự tăng tốc, bứt phá. Hơn lúc nào hết, giá trị, bài học kinh nghiệm to lớn về đại đoàn kết toàn dân tộc; đoàn kết dân tộc Việt Nam với các nước, các lực lượng, phong trào và nhân dân thế giới trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 cần được phát huy mạnh mẽ.

 

 

Xe tăng Quân giải phóng miền Nam chiếm phủ Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn, trưa ngày 30-4-1975_Ảnh: TTXVN

1. Mở đầu

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 thắng lợi, kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ vĩ đại chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là một trong những thắng lợi “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”(1).

Đó là thành quả vĩ đại của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Nhân dân ta đã đánh thắng các thế lực xâm lược có tiềm lực lớn mạnh nhất trên thế giới, kết thúc cuộc kháng chiến kéo dài 30 năm (1945 - 1975), thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xây dựng CNXH.

Trải qua chặng đường đấu tranh đầy gian nan, thử thách, Việt Nam đã chiến đấu và chiến thắng kẻ thù bằng bản lĩnh, trí tuệ và văn hóa trong thời đại Hồ Chí Minh. Thắng lợi vĩ đại và vẻ vang đó được hội tụ, kết tinh bởi nhiều yếu tố, trong đó sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những yếu tố quyết định, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.

2. Nội dung

2.1. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 thắng lợi là kết tinh sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Dân tộc Việt Nam có lịch sử hàng ngàn năm chống giặc ngoại xâm hình thành tinh thần đoàn kết bền vững. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tinh thần đoàn kết là sợi chỉ đỏ xuyên suốt được phát huy và nâng lên tầm cao mới. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta chiến thắng các kẻ thù hùng mạnh là thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ, phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19-12-1946: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(2), tiếp tục là kim chỉ nam cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ sau này.

Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, đất nước ta tạm thời bị chia cắt, kẻ thù tìm mọi cách chia rẽ hai miền Nam - Bắc, chia rẽ đồng bào Kinh và các đồng bào dân tộc thiểu số, lương - giáo. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngày 10-9-1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời với mục đích đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. “Nhân dân Việt Nam đoàn kết triệu người như một, kiên quyết đứng vững trên tiền tuyến của phong trào đấu tranh vĩ đại của nhân dân toàn thế giới chống đế quốc Mỹ”(3). Không phân biệt già trẻ, gái trai, mọi tầng lớp nhân dân đều chung một lý tưởng, chung một khát vọng đánh thắng quân xâm lược Mỹ, giành lại độc lập, thống nhất đất nước.

Miền Bắc trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam, vừa xây dựng CNXH vừa chi viện cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi giới đều đoàn kết thi đua “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Mỗi người làm việc bằng hai”, thanh niên có phong trào “Ba sẵn sàng”, phụ nữ có phong trào “Ba đảm đang”, công nhân “Tay búa, tay súng”, nông dân “Tay cày, tay súng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, thiếu niên học sinh làm “Nghìn việc tốt”… để tham gia cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Hàng triệu lượt thanh niên đã xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, hàng triệu tấn hàng được chuyển vào Nam để đánh giặc(4).

Trước cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, bằng sự cố gắng cao độ, miền Bắc đã chi viện cho miền Nam 56 vạn tấn vật chất. Trong giai đoạn cuối của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, có trên 80% quân số của lực lượng vũ trang, 81% vũ khí đạn dược, 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận tải ở chiến trường miền Nam do miền Bắc bổ sung vào(5).

Ở miền Nam, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để chống Mỹ, cứu nước được khơi dậy với phương châm: “Bất kỳ người nào, bất kỳ nhóm nào, nếu họ tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì chúng ta cũng sẵn sàng thật thà đoàn kết với họ”(6).

Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Mặt trận đã thu hút, tập hợp nhiều tổ chức, lực lượng, đoàn thể tham gia như: Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam, Đảng Xã hội cấp tiến miền Nam, Đảng Dân chủ miền Nam, Giải phóng quân miền Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên giải phóng miền Nam Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam, Hội Lao động giải phóng, Hội Nhà giáo yêu nước, Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ, Hội Liên hiệp học sinh - sinh viên giải phóng miền Nam, Hội Chấn hưng đạo đức của Phật giáo, Hòa Hảo, Nhóm những người đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập Tổ quốc Việt Nam, Nhóm binh sĩ trở về với nhân dân, Hội những người kháng chiến cũ,... Mục đích của Mặt trận là đoàn kết toàn dân đấu tranh chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ chính quyền tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước.

Tiếp đó, ngày 20-4-1968, đại diện các nhân sĩ, bác sĩ, nhà văn, nhà báo, người tu hành, sinh viên, tư sản dân tộc, sĩ quan và công chức tiến bộ trong quân đội và chính quyền miền Nam đã thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam. Liên minh là cơ sở tạo cơ hội đoàn kết, tập hợp lực lượng và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi cả trong và ngoài nước. Sự ra đời của hai tổ chức trên là bước tiến lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức khối đại đoàn kết toàn dân tộc đứng lên chống Mỹ của Đảng, là cơ sở tiến tới thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tháng 6-1969.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được khơi dậy, phát huy nâng lên tầm cao mới, tạo thế và lực chín muồi cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975; thể hiện ý chí toàn dân, toàn quân dám đánh, biết đánh và biết thắng đế quốc Mỹ và tay sai. Thực hiện tiến công và nổi dậy giành thắng lợi từng phần, đến tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi hoàn toàn. Chiến dịch Hồ Chí Minh được coi là đỉnh cao của khối đại đoàn kết, với lực lượng năm cánh quân cùng công nhân, nông dân, thanh niên, tự vệ, du kích, trí thức từ mọi hướng tiến về Sài Gòn... Nhân dân ở tất cả các địa phương trên chiến trường miền Nam đồng loạt nổi dậy tiến công địch, vận động binh lính địch đầu hàng, dẫn đường cho bộ đội.

Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, đoàn xe tăng của Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, Tổng thống ngụy Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Cờ Giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, kết thúc 21 năm trường kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là kết quả của sự động viên tổng lực cả nước, huy động sức người, sức của ở mức cao nhất, tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng. Với Đại thắng mùa Xuân năm 1975, dân tộc ta đã kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống đội quân xâm lược nhà nghề có tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật và quân sự vượt trội. “Đế quốc Mỹ đã tung vào nước ta một đội quân viễn chinh hơn 60 vạn tên gồm quân Mỹ và quân của năm nước chư hầu của Mỹ làm nòng cốt cho hơn một triệu quân ngụy; riêng về quân đội Mỹ, chúng đã huy động lúc cao nhất tới 68% bộ binh, 60% lính thủy đánh bộ, 32% lực lượng không quân chiến thuật, 50% lực lượng không quân chiến lược. Nếu tính cả số quân đóng ở nước ngoài tham chiến ở Việt Nam thì chúng đã sử dụng hơn 80 vạn quân Mỹ, và trong cả cuộc chiến tranh, chúng đã động viên tới 6 triệu lượt binh sĩ Mỹ, ném xuống đất nước ta 7 triệu 850 nghìn tấn bom và tiêu tốn 352 tỷ đôla”(7). Thắng lợi đó khẳng định ý chí quyết tâm sắt đá, sức mạnh của lòng yêu nước và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

2.2. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 thắng lợi là kết tinh sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là kết tinh sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Việt Nam đã phát huy sức mạnh đoàn kết, liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia và tăng cường đoàn kết quốc tế. Tiếp nhận và sử dụng hiệu quả nhất sự giúp đỡ to lớn, quý báu của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 “là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu không gì lay chuyển nổi của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia, của mối quan hệ đặc biệt đã có từ lâu trong lịch sử và được thử thách trong ngọn lửa cách mạng chống kẻ thù chung của ba dân tộc”(8). Mối quan hệ đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba nước là tất yếu, được Nghị quyết Đại hội Quốc dân Lào khẳng định từ thực tiễn lịch sử đấu tranh vì độc lập, tự do của mỗi nước: “muốn kháng chiến giành độc lập, lực lượng kháng chiến của ba nước không thể chia cắt được. Nước Lào không thể độc lập được một khi Việt Nam chưa được độc lập. Việt hay Miên không thể có sự độc lập thực sự được khi nước Lào còn là bàn đạp của Pháp ở Đông Dương”(9).

Với tinh thần đoàn kết, liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước, cùng sức mạnh dân tộc, mỗi nước đã giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp. Phát huy thành quả đó, ngay từ đầu những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cả Việt Nam, Lào, Campuchia đều chủ trương và tăng cường liên minh đoàn kết chiến đấu. Hội nghị cấp cao nhân dân ba nước Đông Dương tổ chức ngày 24 và 25-4-1970, đã ra Tuyên bố chung nêu rõ “quyết tâm bảo vệ, phát triển tình hữu nghị anh em và quan hệ láng giềng tốt giữa 3 nước trong khi ủng hộ lẫn nhau chống kẻ thù chung, cũng như sau này trong việc hợp tác lâu dài xây dựng đất nước theo con đường riêng của mình”(10). Trong đó, miền Bắc Việt Nam vừa là chiến trường, vừa là hậu phương, căn cứ địa của chiến trường miền Nam, chiến trường Lào, chiến trường Campuchia.

Liên minh đoàn kết chiến đấu của ba nước đã “chia lửa”, tạo thế cho quân và dân Việt Nam đánh Mỹ. Chính phủ và nhân dân Lào, Campuchia đã tạo điều kiện để Việt Nam mở các tuyến đường vận tải chiến lược đưa vũ khí, trang bị, lương thực, thực phẩm từ miền Bắc vào chi viện cho miền Nam. Trên biển, 70% hàng quân sự chuyển về cực nam miền Nam Việt Nam được chuyển qua cảng Sihanoukville. Trên bộ, đường Trường Sơn (hay đường mòn Hồ Chí Minh) có nhiều cung đường qua đất Lào, Campuchia; quân, dân nước bạn đã góp công sức rất lớn trong việc mở đường, bảo vệ đường, hàng hóa và tham gia vận tải trong điều kiện giặc Mỹ đánh phá ác liệt.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, qua tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, ta đã vận chuyển được 413.450 tấn vũ khí và hàng hóa các loại(11), trong đó có cả vũ khí hạng nặng, pháo binh cơ giới, xe tăng... Đường Trường Sơn không chỉ là nơi hội tụ của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc mà còn là sức mạnh của tình đoàn kết quốc tế. Những thắng lợi của liên minh chiến đấu ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đã đánh bại chiến lược Chiến tranh đặc biệt, Chiến tranh cục bộ và đặc biệt là chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ, đánh cho “Mỹ cút” khỏi Việt Nam, tạo thế, lực và thời cơ để kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 thắng lợi.

Sức mạnh thời đại trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 thể hiện ở tinh thần đoàn kết, ủng hộ về cả vật chất và tinh thần của các nước XHCN: Cuba, Ba Lan, Tiệp Khắc, Rumani, Bungari, Hunggari, Cộng hòa Dân chủ Đức, Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam. Các nước bạn đã đoàn kết, sát cánh đấu tranh mạnh mẽ trên các diễn đàn quốc tế, phản đối chiến tranh xâm lược phi nghĩa của Mỹ, khẳng định tính chính nghĩa và ủng hộ một nước Việt Nam độc lập, thống nhất. Đồng thời, đã giúp Việt Nam đào tạo cán bộ, cử chuyên gia và viện trợ hơn 7 tỷ rúp, 2.362.682 tấn hậu cần, vũ khí, đạn dược, trang thiết bị (từ năm 1955 đến 1975)(12) để Việt Nam kháng chiến chống đế quốc Mỹ.

Việt Nam đã được các lực lượng dân chủ, tiến bộ, các tổ chức quốc tế đoàn kết và cả nhân dân Mỹ tiến bộ ủng hộ bằng cách tổ chức mít tinh, biểu tình, bãi công, tuyên truyền tố cáo tội ác của quân Mỹ, phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ trên các báo, đài. Nhiều cuộc vận động, quyên góp tiền của, vật chất giúp đỡ Việt Nam được tổ chức như phong trào: “Một triệu Cuaron ủng hộ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”, “Một triệu Phờrăng ủng hộ Việt Nam”… Có thể nói, đoàn kết quốc tế là cơ sở giúp chúng ta kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên véctơ hợp lực của khối đoàn kết thống nhất chiến thắng đế quốc Mỹ và tay sai, làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

2.3. Phát huy tinh thần Đại thắng mùa Xuân năm 1975, khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong kỷ nguyên phát triển mới

Thứ nhất, phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 trong nâng cao nhận thức tính tất yếu, mục tiêu và các định hướng cơ bản của kỷ nguyên phát triển mới, thống nhất ý chí quyết tâm và đề cao trách nhiệm trong thực hiện

Đây là vấn đề định hướng góp phần tiên quyết tạo nên sự đoàn kết thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động của mọi người Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới. Kỷ nguyên này không chỉ đặt ra mục tiêu, nội dung cao cần phải thực hiện mà còn đặt ra yêu cầu cao về tốc độ phát triển gắn với sự ổn định, bền vững. Tính chất xã hội của thời kỳ quá độ, sự đa dạng của các hình thức sở hữu và sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế kéo theo sự đa dạng về lợi ích, thậm chí xuất hiện nhóm lợi ích cản trở sự tăng tốc, bứt phá. Do đó, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đối với việc xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong đó, cần khơi dậy và lan tỏa những giá trị, tinh thần đại đoàn kết trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 trong kỷ nguyên phát triển mới; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, sánh vai cùng các nước trên thế giới; tạo sự thống nhất ý chí và hành động, phấn đấu thực hiện bằng được các mục tiêu: “xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(13).

Đặc biệt, trước mắt cần hướng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vào đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, theo định hướng của Đảng. Tập trung khơi thông, tháo gỡ các điểm nghẽn, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tạo sự thống nhất ý chí, hành động để phát triển. Để xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế và đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, hoạt động đối ngoại đạt được những thành tựu to lớn trong xác lập vị thế và mối quan hệ đoàn kết gắn bó giữa Việt Nam và các nước, các tổ chức quốc tế, các tầng lớp nhân dân, trên các lĩnh vực, tạo thành sức mạnh to lớn để chiến thắng kẻ thù.

Trong kỷ nguyên phát triển mới, giá trị những bài học đó cần được vận dụng sáng tạo và phát huy cao độ. Trước hết, cần cần quán triệt và “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại”(14) trong quan hệ quốc tế. Mọi hoạt động đều phải “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc”. Mối quan hệ giữa kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại được thể hiện ở việc nêu cao ý chí độc lập, tự chủ; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực bên trong là quyết định, cơ bản, lâu dài, nguồn lực bên ngoài là quan trọng.

Kế thừa những bài học kinh nghiệm về đoàn kết, tập hợp sức mạnh thời đại, trong kỷ nguyên phát triển mới cần tập trung hướng vào nhiệm vụ giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển. Cần kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”; tiếp tục kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, nhất là các vấn đề về quan điểm và nguyên tắc, ứng xử hài hòa, linh hoạt trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, song phải xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ, bảo đảm an ninh quốc gia với các thách thức an ninh phi truyền thống; tập trung xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Đó là phương thức tốt nhất để phát huy sức mạnh của mọi lực lượng, của mọi người dân nhằm tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước.

Bên cạnh đó, cần tích cực chủ động, kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm những đối tượng, thế lực trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và lợi dụng một số hạn chế trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội, trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực để xuyên tạc, chống phá đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm ảnh hưởng tới mối quan hệ của Việt Nam với bạn bè quốc tế. Có như vậy, Việt Nam mới thực sự phát huy tốt tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 vào kỷ nguyên phát triển mới.

3. Kết luận

Bài học về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 luôn giữ nguyên giá trị. Trong kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên phát triển bứt phá, tăng tốc dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam XHCN giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc; đuổi kịp, tiến cùng, sánh vai với các cường quốc năm châu, cần tạo sự đồng thuận, đoàn kết thực hiện thành công cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị. Khí thế “Thần tốc - Quyết thắng”, “Một ngày bằng hai mươi năm”, tinh thần cả nước ra trận của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 cần tiếp tục được khơi dậy và phát huy.

PGS, TS BÙI XUÂN QUỲNH
Học viện Chính trị

_________________

(1), (7), (8) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.37, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2004, tr.471, 483, 475.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.534.

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, tr.607.

(4), (12) Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.601-602, 604.

(5) Học viện Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Đại thắng mùa Xuân 1975 - Nguyên nhân và bài học, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr.306.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr.227.

(9) Đảng Nhân dân Cách mạng Lào - Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.194-195.

(10) Nguyễn Xuân Kỳ, Đỗ Văn Nhung, Phạm Việt Trung: Lịch sử Campuchia, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1982, tr.291.

(11) Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.318.

(13), (14) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.217-218, 161.

 


Nguồn: Tạp chí Lý luận Chính trị
Thống kê truy cập
Hôm nay : 1.469
Hôm qua : 2.740
Tháng 04 : 65.903
Năm 2025 : 236.477