Phát huy sức mạnh đoàn kết các tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
Việt Nam là đất nước đa dân tộc, đa tôn giáo, trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đồng bào các tôn giáo luôn đoàn kết, gắn bó và đóng góp tích cực vào sự nghiệp giải phóng đất nước trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Tổng Bí thư Tô Lâm gặp mặt thân mật Đoàn đại biểu chức sắc, chức việc, lãnh đạo các tổ chức tôn giáo, ngày 13/6/2024.
Trong quá trình lãnh đạo, điều hành đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: Một trong những động lực chủ yếu để phát triển đất nước là chính sách đại đoàn kết toàn dân, trong đó đặc biệt coi trọng đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân.
1. Theo từ điển tiếng Việt, đoàn kết là đồng lòng, kết hợp thành khối, thành nhóm chặt chẽ. Đoàn kết tôn giáo là các tôn giáo cùng kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung. Ở Việt Nam, vấn đề tôn giáo và dân tộc luôn có mối quan hệ khăng khít, gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhiều đồng bào các dân tộc đã và đang tin, theo một tôn giáo; vì thế đoàn kết tôn giáo chính là thành tố quan trọng tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, trong đó Người đặc biệt quan tâm đến tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện đoàn kết giữa các tôn giáo ở nước ta. Người khẳng định, đoàn kết toàn dân, đặc biệt là đoàn kết các tôn giáo với nhau là vấn đề sống còn, quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng, sự tồn vong của dân tộc. Ngay sau khi nước nhà độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03/9/1945), Người đã tuyên bố: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương để dễ bề thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”[1] và khẳng định: “Phải đoàn kết chặt chẽ không phân biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo. Đoàn kết tức là lực lượng; chia rẽ tức là yếu hèn”[2]. Đây cũng chính là kim chỉ nam cho sự thành công của cách mạng nước ta.
Kế thừa, phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết tôn giáo, đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc đã trở thành tư tưởng xuyên suốt, một chiến lược cách mạng quan trọng của Đảng ta. Những năm qua, Ðảng và Nhà nước luôn đặc biệt coi trọng vấn đề đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo và coi đó là một trong những nội dung quan trọng trọng việc hoạch định đường lối xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo đã xác định: "Tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HÐH đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh[3]". Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”[4].“Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật.”[5]; “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước”[6].
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng các chức sắc, chức việc tại Hội nghị biểu dương các tổ chức tôn giáo có đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ảnh: chinhphu.vn
Trên cơ sở cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng ta về đoàn kết tôn giáo, Điều 24, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: (i) Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; (ii) Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; (iii) Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Như vậy, các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều là hướng tới mục tiêu nhất quán, đó là đoàn kết đồng bào tôn giáo vào trong khối đại đoàn kết dân tộc, vì sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Đặc biệt, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 là cơ sở pháp lý quan trọng khắc phục những bất cập, hạn chế của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hiện hành, đổi mới cơ chế quản lý nhà nước tạo thông thoáng, minh bạch, hạn chế sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào công việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo; góp phần bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân trên thực tế.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, trong những năm vừa qua, các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo đã luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, hòa hợp, tạo nên sức mạnh to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các tôn giáo ở Việt Nam ngày càng phát triển; tính đến năm 2023, cả nước có 41 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động với 27,7 triệu tín đồ, chiếm 27,7% dân số cả nước; 54.500 chức sắc, gần 145.000 chức việc, hơn 29.800 cơ sở thờ tự, 53 cơ sở đào tạo cho các tôn giáo. Các tôn giáo đã có hệ thống đào tạo quy mô trong cả nước, thủ tục hành chính giải quyết nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ chức sắc theo cơ chế “một cửa” diễn ra công khai, nhanh gọn. Các cơ sở thờ tự tôn giáo được chính quyền các cấp tạo điều kiện tu sửa, nâng cấp và xây mới. Ngày càng nhiều chức sắc, nhà tu hành tham gia quản lý nhà nước và xã hội, là đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã có báo, tạp chí, bản tin; Nhà nước đã cấp phép xuất bản kinh sách bằng các tiếng dân tộc và bằng song ngữ nhiều thứ tiếng. Hằng năm, ở nước ta có khoảng hơn 8.000 lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo được tổ chức, trong đó có 544 lễ hội tôn giáo. Hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tôn giáo được chú trọng, đẩy mạnh, nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức ở Việt Nam, như: Đại lễ 100 năm Tin lành đến Việt Nam, Đại lễ Phật đản VESAK... thu hút hàng vạn tăng ni, phật tử, tín đồ trong và ngoài nước tham dự. Đối với các nhóm người theo tôn giáo chưa được công nhận về mặt tổ chức hoặc chưa được cấp đăng ký hoạt động, chính quyền địa phương vẫn bảo đảm tự do sinh hoạt tôn giáo cho các tín đồ tại gia đình, điểm nhóm đăng ký với chính quyền hoặc địa điểm hợp pháp. Mọi sinh hoạt tôn giáo của Nhân dân, kể cả người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam đều được đảm bảo theo quy định của pháp luật; người nước ngoài được giảng đạo tại điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung, được mang theo xuất bản phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo để phục vụ nhu cầu tôn giáo.
Nhờ chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng, Nhà nước những năm vừa qua, đồng bào các tôn giáo ngày càng yên tâm, tin tưởng, hăng hái thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là các hoạt động xã hội, từ thiện, góp phần cùng chính quyền các cấp phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư. Điều dễ dàng nhận thấy là, những năm vừa qua, tín đồ, chức sắc chân chính của các tôn giáo ở nước ta đã, đang quyên góp hàng ngàn tỷ đồng xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội
Hiện nay, cả nước có khoảng 300 trường mầm non, 2.000 cơ sở giáo dục mầm non, 12 cơ sở dạy nghề thuộc các tổ chức tôn giáo. Trong lĩnh vực y tế, hiện có trên 500 cơ sở y tế, phòng khám chữa bệnh từ thiện do các tổ chức tôn giáo thành lập dưới nhiều hình thức. Với số tiền mà các tôn giáo đóng góp hàng trăm tỷ đồng mỗi năm, hỗ trợ tích cực vào các hoạt động an sinh xã hội của đất nước. Đóng góp của các tôn giáo đã và đang làm giảm bớt chi ngân sách nhà nước, thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm người trong xã hội.
Kinh phí tổ chức do tổ chức, cá nhân tôn giáo đóng góp để thực hiện các hoạt động này mỗi năm lên tới hàng chục tỷ đồng; hàng năm đã thành lập các đoàn khám, chữa bệnh lưu động, phát thuốc miễn phí cho người nghèo. Bên cạnh đó, cả nước có 113 cơ sở trợ giúp xã hội thuộc các tổ chức Phật giáo, Công giáo, Cao đài được cấp phép hoạt động, đang chăm sóc, nuôi dưỡng 11.800 đối tượng bảo trợ xã hội. Các tổ chức tôn giáo đã chi hàng nghìn tỷ đồng cho hoạt động của các cơ sở giáo dục, cơ sở y tế, cơ sở bảo trợ xã hội và các hoạt động từ thiện nhân đạo; đồng thời tích cực tham gia cùng chính quyền địa phương trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh. Những hoạt động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo đã góp phần làm đa dạng việc huy động các nguồn lực xã hội; chia sẻ với chính quyền địa phương, với Nhà nước và xã hội, lan tỏa tinh thần “tương thân, tương ái” sâu sắc trong cộng đồng. Đặc biệt, trong hai năm 2020 và 2021, khi đại dịch Covid-19 bùng phát trên toàn cầu và tại Việt Nam, các tổ chức tôn giáo đã thể hiện tinh thần đoàn kết, trách nhiệm cao với đất nước, với Nhân dân bằng những nghĩa cử cao đẹp, với nhiều đóng góp to lớn về con người, vật chất và tinh thần, góp phần cùng chính quyền và Nhân dân cả nước sớm kiểm soát tình hình dịch bệnh và ổn định lao động, sản xuất.
Qua các phong trào này, đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân tiêu biểu là tăng ni, phật tử có thành tích xuất sắc được Đảng, Nhà nước tặng thưởng các phần thưởng cao quý như: Hòa thượng Thích Thiện Chiếu (chùa Kỳ Quang II, Thành phố Hồ Chí Minh) đã tổ chức dạy nghề miễn phí cho hàng ngàn người lao động nghèo, người khuyết tật; cố Hòa thượng Thích Thanh Sơn (chùa Vạn Thọ, Thành phố Hồ Chí Minh) đã khám chữa bệnh miễn phí cho hàng ngàn người nghèo; Thượng tọa Thích Minh Quang (chùa Pháp Hoa, Thành phố Hồ Chí Minh) hỗ trợ lương thực, nhu yếu phẩm đến bà con khó khăn do ảnh hưởng Covid-19 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trị giá hàng tỷ đồng; ông Đoàn Văn Hổ, Trưởng Ban Trị sự Phật giáo Hòa Hảo, Tịnh Biên, An Giang quyên góp hàng tỷ đồng xây cầu, xóa đói giảm nghèo; xây nhà cho người nghèo; giáo dân Nguyễn Thị Minh Nguyệt (quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội) hơn 40 năm làm từ thiện cho người nghèo nơi vùng cao Tây Bắc... Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, vị trí của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Ðạt được những thành tựu đó là do nhiều yếu tố, trong đó có đóng góp quan trọng của đồng bào các tôn giáo. Họ gắn bó với quốc gia, dân tộc vừa hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với Tổ quốc, vừa làm tròn bổn phận của một tín đồ đối với tôn giáo cùng phấn đấu cho mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2. Với chính sách tôn giáo ngày càng cởi mở, hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra rất đa dạng, phong phú. Nhiều đoàn của tôn giáo ra nước ngoài dự hội nghị, hội thảo, mở rộng quan hệ quốc tế với các tổ chức tôn giáo quốc tế, tham gia diễn đàn khu vực và quốc tế như: Đối thoại liên tín ngưỡng Á - Âu (ASEM), đối thoại Liên tín ngưỡng khu vực Châu Á Thái Bình Dương… Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn đã được tổ chức trọng thể, thành công ở nước ta và dư luận thế giới đánh giá cao như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 03 lần đăng cai và tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Vesak Liên hợp quốc; Giáo hội Công giáo tổ chức Tổng hội Dòng Đa minh thế giới; Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức hội nghị Giám mục Á châu. Ngoài ra, các sự kiện tôn giáo lớn thu hút sự quan tâm, tham dự của chức sắc, tín đồ tôn giáo ở trong và ngoài nước như: Hội yến Diêu trì cung của Cao Đài tổ chức hàng năm; Đại hội La Vang của Công giáo… Những hoạt động trên đã góp phần giới thiệu, quảng bá về đất nước, con người Việt Nam; về các tôn giáo, lịch sử, văn hóa của Việt Nam đến với bạn bè quốc tế, góp phần đáng kể vào công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và đối ngoại nhân dân, giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về đời sống tôn giáo Việt Nam, chính sách nhất quán tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Đại hội đại biểu phật giáo toàn quốc lần thứ IX, nhiệm kỳ 2022-2027.
Từ việc nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của công tác tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã xác định: Công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo; các cơ quan ban ngành chức năng trong đó Mặt trận Tổ quốc các cấp đóng vai trò chủ trì vừa phải quan tâm hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là vừa chăm lo đến đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân, vừa đưa sinh hoạt tôn giáo vào khuôn khổ quản lý nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để các tôn giáo hoạt động theo đúng pháp luật; góp phần loại bỏ các tà đạo nhằm làm lành mạnh hóa sinh hoạt tôn giáo. Đẩy mạnh tuyên truyền khai thác các giá trị nhân bản, đạo đức trong các tôn giáo, gắn “việc đạo với việc đời”, “tôn giáo với dân tộc”; giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với đất nước. Quan tâm, giải quyết các nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chính đáng của người dân trên cơ sở pháp luật.
2. Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng khối đại đoàn kết tôn giáo trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số giải pháp trọng tâm như sau:
Một là, tiếp tục xây dựng, củng cố hệ thống chính trị vững mạnh từ Trung ương đến cơ sở trong sạch, vững mạnh toàn diện để cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ được vận hành thông suốt, coi đây là trách nhiệm, nhiệm vụ thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu với quan điểm Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị, xã hội làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ trong xây dựng thể chế vận hành hệ thống chính trị.
Hai là, tiếp tục thực hiện tốt quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo tại từng địa bàn, nhất là các địa bàn tập trung nhiều tôn giáo là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Thông qua đó, củng cố lòng tin của đồng bào có đạo với Đảng, Nhà nước; hướng dẫn hoạt động của các tổ chức tôn giáo trên địa bàn bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của Nhân dân, đặc biệt là đồng bào tín đồ các tôn giáo trên tinh thần“cầu đồng, tồn dị”, loại bỏ những khác biệt về chính kiến, tìm kiếm những điểm tương đồng trong Nhân dân. Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, các tôn giáo... vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, các cơ quan, ban, ngành chức năng cần tiếp tục tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội đối với các địa bàn có đồng bào tôn giáo. Quan tâm, hỗ trợ, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào mở rộng sản xuất, kinh doanh, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ tập quán lạc hậu, làm cho đời sống đồng bào theo các tôn giáo ngày càng được cải thiện, phát triển. Kết hợp các chính sách hỗ đặc biệt cho đồng bào các tôn giáo có hoàn cảnh khó khăn, cải thiện và từng bước nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt là Nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào các tôn giáo. Đây là giải pháp này vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài, có ý nghĩa sâu sắc trong việc ổn định, đoàn kết đồng bào tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bốn là, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, dân tộc nói chung, công tác xây dựng khối đoàn kết tôn giáo nói riêng đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực này. Cần quan tâm xây dựng tổ chức, bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo đủ mạnh, tạo điều kiện về mọi mặt nhằm góp phần tham mưu ngày càng tốt hơn cho cấp uỷ, chính quyền giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo từ Trung ương đến địa phương, những người trực tiếp giải quyết vấn đề liên quan đến tôn giáo ở cơ sở. Quá trình đào tạo, bồi dưỡng, các cấp cần đa dạng hóa các loại hình, nội dung phải luôn mới, sát hợp thực tế, cần phải tích cực đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp bồi dưỡng cho phù hợp với từng đối tượng, từng vùng tôn giáo khác nhau.
Năm là, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận và hoạt động bình thường theo Hiến pháp, pháp luật. Quan tâm giải quyết các nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Tạo điều kiện cho các tôn giáo sinh hoạt chính là tạo điều kiện cho các tôn giáo phát triển lành mạnh, tiền đề để chúng ta đoàn kết được họ vào trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và những hoạt động tôn giáo trái quy định của pháp luật. Chỉ có như vậy mới đảm bảo được quyền tự do chân chính của đồng bào có đạo hoạt động tôn giáo tự do, bình đẳng, đúng pháp luật; có bảo đảm quyền ấy mới làm cho đồng bào có đạo tự giác chống lại hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng.
Đại đoàn kết các tôn giáo là bài học có ý nghĩa chiến lược, vô cùng quan trọng mà ông cha ta đã tổng kết trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đó cũng là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong thời đại mới nhằm khơi dậy và phát huy những giá trị tích cực của mỗi tôn giáo nói riêng và sức mạnh khối đại đoàn kết các tôn giáo nói chung trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, góp phần đưa đất nước ta phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực của xã hội.
Thiếu tá Trần Đình Thu
Công an tỉnh Hòa Bình
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, t.4, tr.9, 490;
[2] Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào Công giáo, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, tr.62;
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần thứ 7, BCH TW Đảng khóa IX về công tác tôn giáo;
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 2021, tập 1, tr.122,
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 2021, tập 1, tr.272;
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 2021, tập 1, tr.50 - 51;