Phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới
BTGDV - Lịch sử đã chứng minh, đại đoàn kết dân tộc là điểm tựa tinh thần quan trọng của dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Bước vào kỷ nguyên phát triển mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc cần được phát huy bằng những phương thức phù hợp để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa văn minh, giàu đẹp, hạnh phúc, tự hào sánh vai với các cường quốc trên thế giới.
Đại đoàn kết dân tộc là điểm tựa tinh thần quan trọng của dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước_Ảnh: Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (Báo Tuổi trẻ)
1. Mở đầu
Qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(1). Những thành tựu đạt được là cơ sở vững chắc củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với tiền đồ, vận mệnh của dân tộc, là cơ sở, tiền đề để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên phát triển mới. Đây là khoảng thời gian dân tộc ta phải vươn lên mãnh liệt, phấn đấu thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược, tạo sự phát triển vượt bậc ở một tầm cao mới, trình độ mới, chất lượng mới. Đây sẽ là kỷ nguyên phát triển bứt phá, tăng tốc của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc. Thực tế đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân tiếp tục phát huy sức mạnh của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, gia tăng sự đồng lòng, đồng thuận xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong kỷ nguyên vươn mình phát triển.
2. Nội dung
2.1. Sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong kỷ nguyên mới
Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc hình thành và phát triển cùng với tinh thần yêu nước là những “truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam, được hun đúc, bồi đắp qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước”(2). Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24-11-2023, Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(3).
Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam được hình thành từ lịch sử đấu tranh hàng nghìn năm xây dựng và bảo vệ nền độc lập, từ truyền thống văn hóa và quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta. Những cam go, khốc liệt, hy sinh của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm xuất phát từ khát vọng độc lập, tự do, hòa bình đã hun đúc tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa toàn dân tộc Việt Nam thành một đại gia đình. Tinh thần đại đoàn kết được hình thành từ tình cảm sâu sắc với quê hương, đất nước; thúc đẩy mọi người Việt Nam ý thức được trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, kéo họ lại gần nhau để cùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp như “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, bao dung - độ lượng, lạc quan, tin tưởng… đã góp phần quan trọng hình thành và củng cố tinh thần đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Trong thời kỳ mới, quan điểm, chủ trương, đường lối nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc duy trì và khơi dậy tinh thần đại đoàn kết của nhân dân ta.
Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc có sức mạnh to lớn. Tinh thần này giúp dân tộc ta vượt qua mọi thử thách trong lịch sử chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước; là cơ sở, nguồn cội vun đắp, dưỡng bồi tinh thần yêu nước của mọi người dân Việt Nam. Đây là sức mạnh nội sinh, tạo ra sự đồng lòng, đồng thuận, hình thành điểm giao kết hướng mọi lực lượng xã hội đến mục tiêu chung là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Tổng kết lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, với lòng yêu nước và tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc đã tạo thành một lực lượng vô cùng to lớn, “không ai thắng nổi”. “Nhờ đại đoàn kết mà trong bao nhiêu thế kỷ, nhân dân Việt Nam đã bảo vệ được độc lập tự do của mình”(4). Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc đã củng cố, phát huy tối đa sức mạnh tiềm năng của tất cả các cộng đồng tộc người, trước hết, là phát huy được chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý chí quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược trong mỗi người dân, trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, nền tảng vững chắc của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giữa các giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, là quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng; là đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở trong nước, ngoài nước và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới.
Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được biểu hiện rõ nét trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
Trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, toàn dân tộc đồng lòng, thống nhất ý chí, bảo vệ chủ quyền biển đảo, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Sự đoàn kết của toàn dân tộc tạo thành sức mạnh to lớn trong việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về lòng yêu nước. Những phong trào như “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới”, “Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh biên giới quốc gia”… được phát động rộng rãi đã khuyến khích mọi người dân tham gia vào các hoạt động bảo vệ Tổ quốc, từ việc giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương cho đến việc tuyên truyền về biển đảo. Trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, sự đồng lòng, tinh thần đoàn kết được thể hiện qua những hành động thiết thực, cụ thể. Việc tham gia tích cực vào cuộc thi chính luận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã lan tỏa những điều tốt đẹp, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những yếu tố này không chỉ giúp tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc mà còn khẳng định rằng mỗi người Việt Nam đều có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tinh thần đại đoàn kết được biểu hiện phong phú, sinh động. Các hoạt động bảo tồn văn hóa dân tộc, như: lễ hội, phong tục tập quán, tiếng nói, trang phục truyền thống,… đều được thực hiện đồng bộ với sự tham gia của 54 dân tộc anh em, từ đó khẳng định tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và tôn trọng sự đa dạng văn hóa. Các hoạt động giao lưu văn hóa giữa các dân tộc không chỉ giúp tăng cường mối quan hệ mà còn tạo cơ hội cho mọi người tìm hiểu và trân trọng các giá trị văn hóa của nhau, từ đó thúc đẩy sự đoàn kết trong cộng đồng. Sự hợp tác giữa các vùng miền và các dân tộc khác nhau trong việc phát triển kinh tế, du lịch văn hóa cũng góp phần vào việc tôn vinh truyền thống văn hóa, tạo ra môi trường đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau.
Trong thiên tai, dịch bệnh, truyền thống đại đoàn kết dân tộc được thể hiện một cách rõ nét. Khi có thiên tai như bão lụt (bão Yagi 2024), hạn hán hay dịch bệnh (Covid-19), nhân dân cả nước quyên góp tiền bạc, lương thực, thuốc men cho những người bị ảnh hưởng, thể hiện tinh thần gắn bó và sẻ chia sâu sắc. Các tổ chức đoàn thể kịp thời huy động lực lượng tham gia các hoạt động cứu hộ, cứu nạn, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, nâng cao ý thức đoàn kết trong cộng đồng. Người dân từ mọi vùng miền, từ các dân tộc khác nhau đều chung tay hỗ trợ, bất kể khoảng cách địa lý hay sự khác biệt văn hóa, cho thấy sự đồng lòng của cả dân tộc trong khắc phục khó khăn, thử thách. Trong khó khăn, nhiều phong trào “Tương thân tương ái” được phát động, khuyến khích mọi người cùng hỗ trợ lẫn nhau, như: việc tặng quà, hỗ trợ người lao động, gia đình khó khăn… thể hiện sự đoàn kết, phối hợp cùng nhau, đồng lòng vượt qua mọi trở ngại, khẳng định “không ai bị bỏ lại phía sau”. Tinh thần đại đoàn kết dân tộc cùng ý chí tự lực, tự cường, tinh thần lạc quan cách mạng là cơ sở quan trọng để thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và hiện nay là công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong kỷ nguyên mới được hiểu là tổng hòa các phương thức nhằm chuyển hóa sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc thành động lực gia tăng sự đồng lòng, đồng thuận của các chủ thể tiến hành hoạt động thực tiễn hiệu quả hơn, tạo thành sức mạnh tổng hợp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong điều kiện, hoàn cảnh mới, tạo điểm tựa cho dân tộc bước vào kỷ nguyên phát triển mới phải chú trọng đến các phương thức để “đồng quy” mọi giai tầng, mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội hướng đến mục tiêu chung là xây dựng quốc gia giàu mạnh, hùng cường, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trước mọi nguy cơ cả bên trong lẫn bên ngoài. Phải làm cho mọi người dân Việt Nam nhận thức rõ, điểm chung sống còn của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đó là “vận mệnh quốc gia - dân tộc”, vì “nước mất thì nhà tan, dân nô lệ”.
Để phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm của Hồ Chí Minh: “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”(5). Đại đoàn kết toàn dân tộc, mọi người đồng lòng, đồng hướng vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân không chỉ là yếu tố động lực trong các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, mà còn là động lực mạnh mẽ đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong điều kiện hiện nay, Đảng khẳng định, cần phải: “Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(6); phải đồng bộ hóa mọi biện pháp, cách thức để “xây dựng và tăng cường củng cố khối đoàn kết toàn dân, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, bảo đảm thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng và hành động”(7). Cụ thể:
Trong xây dựng và phát triển đất nước, nhiều hoạt động giáo dục truyền thống văn hóa và lịch sử dân tộc được tổ chức đã giúp người dân hiểu rõ hơn về vai trò của tinh thần đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đảng và Nhà nước phát động các phong trào quần chúng, hoạt động tình nguyện để tăng cường tinh thần đoàn kết và phát huy sức mạnh của cộng đồng. Những hoạt động này không chỉ tạo ra sức mạnh tập thể mà còn thúc đẩy tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân. Việc tổ chức lễ hội, giao lưu văn hóa giữa các dân tộc góp phần tăng cường mối quan hệ gắn bó và đoàn kết.
Trong bảo vệ Tổ quốc, công tác tuyên truyền về ý thức trách nhiệm của mỗi công dân trong việc bảo vệ Tổ quốc, nâng cao nhận thức về chủ quyền lãnh thổ, biển đảo được đặc biệt quan tâm. Việc vận động mọi người dân, từ các dân tộc, tôn giáo khác nhau, tham gia vào các phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, như các hoạt động bảo vệ trật tự, an sinh xã hội, giúp đỡ nhau trong cộng đồng đã góp phần phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phát động nhiều phong trào, hoạt động hỗ trợ các lực lượng bảo vệ Tổ quốc. Điều này vừa phát huy tinh thần, ý thức cộng đồng, vừa tạo sức mạnh góp phần bảo vệ an ninh quốc gia.
Trong bảo tồn văn hóa truyền thống, đại đoàn kết dân tộc được quan tâm. Trong đó, chú trọng tăng cường vai trò của các chủ thể gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam - hạt nhân của khối đoàn kết toàn dân tộc; Nhà nước với vai trò là công cụ bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các chủ thể, quản lý, tổ chức thực hiện các hoạt động thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Mặt trận Tổ quốc với tư cách là phương thức tổ chức, tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng. Từ đó, tiếp tục củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc trong nước; đoàn kết tôn giáo; phát huy vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
2.2. Thành tựu và hạn chế trong phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc thời kỳ đổi mới
Trong công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc đã đạt được thành tựu to lớn:
Một là, Đảng đã luôn coi việc giữ gìn đoàn kết nhất trí trên cơ sở đường lối chính trị và các nguyên tắc xây dựng Đảng là sinh mệnh của Đảng; đã kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái, gây mất đoàn kết trong Đảng. Các kỳ Đại hội Đảng đều nhấn mạnh vai trò của đoàn kết, coi đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là ở cơ quan lãnh đạo có ý nghĩa quyết định sự thành công của cách mạng; Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”(8).
Để thực hiện tốt phương châm đó, Đảng ta xác định “yếu tố “quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(9).
Hai là, Nhà nước phát huy vai trò quản lý toàn diện trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đã ban hành các chính sách, pháp luật cụ thể hóa đường lối của Đảng về phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết dân tộc, tạo sự đồng lòng, đồng thuận của nhân dân; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thực hành dân chủ, công khai minh bạch, kỷ luật, kỷ cương; chú trọng công tác cải cách hành chính; quyết liệt trong triển khai thực hiện công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; hoạt động của Nhà nước hướng về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy phục vụ, sự hài lòng, hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Nhà nước đã góp phần to lớn “cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn.
Ba là, cùng với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát huy vai trò trong công tác vận động nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, “củng cố, mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội”(10). Mặt trận Tổ quốc đã phát huy vai trò liên minh chính trị rộng lớn nhất, một phương thức, tổ chức tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Trong quá trình đổi mới, Mặt trận đã “lắng nghe nhân dân nói”, tập hợp ý kiến, nguyện vọng, hiến kế của nhân dân để chủ động tham gia đề xuất, xây dựng, phản biện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Cùng với đó, tích cực thực hiện nhiệm vụ theo dõi, giám sát việc giải quyết những bức xúc, các kiến nghị, đề nghị chính đáng của nhân dân.
Trong những năm qua, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị phát huy sức mạnh toàn dân tộc với những phương thức phù hợp, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy cao độ, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên. Đoàn kết trong Đảng đã thực sự trở thành hạt nhân, cơ sở vững chắc để xây dựng, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, tạo ra sức mạnh muôn người Việt Nam như một; tạo sự đồng thuận cao giữa các lực lượng; đoàn kết mọi người dân Việt Nam trên toàn thế giới đã góp phần to lớn phát huy sức mạnh dân tộc, kết nối với các dân tộc, quốc gia khác, khơi dậy những tiềm lực to lớn phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…
Những kết quả phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã góp phần to lớn thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nâng cao được sức mạnh tổng hợp, vị thế quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, tự chủ trong đường lối chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; bảo vệ nhân dân trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh, thiên tai; bảo vệ hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Tuy nhiên, trước những thách thức do sự biến động của tình hình thế giới, của đời sống xã hội, phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc cũng còn một số hạn chế:
Một là, một số cấp ủy đảng chưa làm tốt công tác dự báo, chưa kịp thời nhận biết những diễn biến, thay đổi trong đời sống xã hội, chưa nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có chủ trương, các biện pháp phù hợp, nhằm phát huy truyền thống và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Cùng với đó, “một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân”(11), còn xa dân, hành dân, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” chưa nhịp nhàng; thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” có mặt còn hạn chế, nhất là vấn đề dân thụ hưởng. Tinh thần đồng thuận xã hội, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bị suy giảm do các hiện tượng, như: quyền dân chủ bị vi phạm, một số cán bộ, đảng viên tham ô, tham nhũng, gây hậu quả nghiêm trọng. Công tác tuyên truyền, phổ biến các mục tiêu, quan điểm, những chủ trương và giải pháp thực hiện các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở một số cấp ủy Đảng còn mang tính giáo điều, khô khan, thiếu sức hấp dẫn, chưa thực sự bám sát đối tượng, chưa đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của từng tầng lớp nhân dân; hình thức tuyên truyền còn đơn điệu, chưa phù hợp với xu hướng tiếp nhận thông tin của người dân trong thời đại công nghệ số. Mức độ đồng thuận xã hội trong thực hiện các chủ trương, chính sách còn thiếu các phương pháp đánh giá phù hợp. Thiếu sự gắn kết, phối hợp giữa các chủ thể trong công tác tuyên truyền, giáo dục (các học viện, bộ, ban, ngành, đoàn thể, các trường chính trị, trung tâm chính trị…), dẫn đến tình trạng chồng chéo, lãng phí các nguồn lực.
Hai là, đối với Nhà nước, việc cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng trong phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc còn chưa kịp thời, thực hiện còn chưa nghiêm, nhất là một số vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. “Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”(12). Hiện tượng lúng túng, yếu kém, tồn tại nhiều kẽ hở trong điều hành và quản lý đất nước tạo điều kiện cho các tiêu cực phát sinh, phát triển “gây ra tình trạng bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo và những bức xúc, bất bình trong xã hội, từ đó dẫn đến những xói mòn trong nhận thức, niềm tin, định hướng giá trị của dân chúng”(13).
Quản lý nhà nước ở một số cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương trên một số lĩnh vực còn buông lỏng, thiếu chặt chẽ, những vấn đề nhân dân bức xúc chậm được đối thoại, giải quyết chưa kịp thời, nhất là lĩnh vực y tế, giáo dục, xây dựng, khai thác và sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản,… ảnh hưởng lớn đến lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Một bộ phận cán bộ, công chức, nhất là một số cán bộ giữ chức vụ chưa nâng cao đạo đức công vụ, ý thức phục vụ nhân dân, có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, vi phạm pháp luật làm xói mòn lòng tin, suy giảm sự đồng thuận xã hội; sự bất cập trong công tác xây dựng bộ máy, trong thực hiện chính sách là nguyên nhân dẫn đến các vụ việc khiếu kiện phức tạp, đông người, kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến việc xây dựng thế trận lòng dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác dân vận, tuyên truyền về chủ trương, chính sách còn chưa thông suốt, thiếu thường xuyên. Cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước thực thi các chính sách liên quan đến lợi ích thiết thực, quyền lợi chính đáng của dân còn chưa đồng bộ, do bộ máy chưa kịp thời đổi mới; trong xây dựng chính sách còn biểu hiện lợi ích nhóm, tham nhũng chính sách…
Nhà nước chưa thực sự phát huy cao độ sự đồng thuận xã hội trên nhiều khía cạnh của đời sống, nhất là trong mục tiêu giảm sự gia tăng chênh lệch về thu nhập, về cơ hội phát triển giữa các chủ thể, giữa các vùng miền, khu vực. Khoảng cách phân hóa giàu nghèo gia tăng dẫn đến nguy cơ phá vỡ mối quan hệ giữa các nhóm xã hội, giữa các giai tầng và cả trong một giai tầng. Thậm chí trong một số lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực kinh tế xuất hiện nhiều xung đột xã hội. Việc ban hành, thực thi các chính sách còn chưa đồng bộ, hiệu quả thực thi chưa cao, có những chủ trương, chính sách không sát thực tiễn, gây ra lãng phí không nhỏ nguồn lực, nhất là các nguồn lực do nhân dân đóng góp...
Trong các nhà trường của hệ thống giáo dục quốc dân, nội dung và chương trình giáo dục về truyền thống đại đoàn kết nói riêng, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nói chung chưa được đổi mới kịp thời, chưa phù hợp với thực tế; phương pháp giảng dạy còn nặng về lý thuyết, thiếu gắn kết với thực tiễn, thời lượng bố trí còn rất ít, việc lồng ghép trong các nội dung, các môn học còn mờ nhạt, “chưa chú trọng đúng mức tới giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên”(14); các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được tổ chức thường xuyên, hiệu quả cũng chưa cao.
Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội chưa thực sự phát huy vai trò của mình. Đặc biệt là vai trò đại diện cho các tầng lớp nhân dân, chưa phản ánh đầy đủ ý kiến, nguyện vọng của nhân dân; những biểu hiện, hành động xa rời nhân dân, quan liêu, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của các phong trào của toàn dân, làm suy giảm nghiêm trọng tính đồng thuận xã hội, làm suy yếu sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Các biện pháp trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái cho mọi người dân, nhất là thế hệ trẻ ở gia đình và xã hội vẫn còn những hạn chế nhất định. Chưa có những biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích các gia đình xây dựng môi trường giáo dục con cái về truyền thống gia đình, dòng tộc, lịch sử, văn hóa của dân tộc, truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết của người Việt Nam. Một số hoạt động giáo dục xã hội về truyền thống đoàn kết của dân tộc chưa hiệu quả, thiếu sức hấp dẫn; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban ngành. Cùng với đó, những biện pháp nhằm hạn chế tác động tiêu cực của quá trình phát triển kinh tế thị trường, sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai,… chưa thực sự hiệu quả, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giáo dục truyền thống đoàn kết.
2.3. Một số giải pháp phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong kỷ nguyên mới
Một là, nâng cao nhận thức, vai trò tích cực, năng động sáng tạo của các chủ thể phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong kỷ nguyên mới. Cần khắc phục hiện tượng một số cán bộ, đảng viên thiếu tinh thần trách nhiệm, chưa gương mẫu trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, biểu hiện tham nhũng, lãng phí, vi phạm pháp luật, nhất là hiện tượng cán bộ giàu lên nhanh chóng nhưng thiếu minh bạch; cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, quan liêu, sống xa dân, vô cảm trước những bức xúc của nhân dân… làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Xây dựng tinh thần đoàn kết, thống nhất, bồi dưỡng, củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, tạo sự đồng thuận xã hội cao đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc làm cho mọi người dân Việt Nam ngày càng ý thức đầy đủ về trách nhiệm và nghĩa vụ công dân, phải luôn gắn sinh mệnh của mình với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, cần có các phong trào, hoạt động tình nguyện khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều này bao gồm việc tạo ra những diễn đàn để mọi người có thể đóng góp ý kiến, từ đó tạo ra sự đồng thuận và tinh thần trách nhiệm.
Hai là, thực hiện đồng bộ các biện pháp để khắc phục những tác động tiêu cực từ phát triển kinh tế thị trường đối với vấn đề phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Cụ thể là: Khắc phục sự chênh lệch về thu nhập, điều kiện sống, tăng cường các biện pháp bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội cho người dân, thực hiện chính sách đối với người có công, người lao động, xóa bỏ tâm lý so sánh, ganh tị, ảnh hưởng đến tinh thần đoàn kết. Ngăn chặn sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai không phù hợp, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời phát huy hiệu quả những mặt tích cực của sự phát triển của mạng xã hội, hạn chế mặt tiêu cực, nhất là việc lợi dụng mạng xã hội để lan truyền thông tin sai lệch, kích động chia rẽ, làm “ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức mạnh lòng dân, làm suy yếu sức mạnh tổng hợp của thế trận an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân trong sự nghiệp giữ nước”(15).
Nhận thức rõ và có những biện pháp hiệu quả để khắc phục những tác động tiêu cực do diễn biến phức tạp của tình hình thế giới đối với tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Trước hết, phải thấy rõ nguy cơ từ sự cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các cường quốc có thể làm bùng phát chiến tranh khu vực và quốc tế; sự xuất hiện của các vấn đề an ninh phi truyền thống, như: khủng bố, bạo lực, dịch bệnh; các thế lực thù địch chống phá, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc, kích động chia rẽ, ly khai… Những điều này đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa tinh thần cảnh giác, tăng cường phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng và lợi ích cho mọi tầng lớp trong xã hội. Các chương trình giảm nghèo, phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa sẽ tạo ra sự đồng lòng trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng và Nhà nước cần tiếp tục xây dựng các chính sách hỗ trợ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc. Tổ chức các lễ hội, giao lưu văn hóa giữa các vùng miền, từ đó tăng cường sự gắn bó, đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc. Cần tiếp tục phát động các phong trào hỗ trợ nhau trong cộng đồng, đặc biệt là trong những tình huống khẩn cấp như thiên tai, dịch bệnh.
Ba là, nâng cao hiệu quả các phương thức phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tạo điểm tựa vững chắc cho dân tộc trong kỷ nguyên mới. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục, tuyên truyền, đổi mới về nội dung, phương pháp, khắc phục hiện tượng thiếu hấp dẫn, hiệu quả thấp. Cần chú trọng việc đổi mới phương thức, ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông mới vào công tác tuyên truyền, giáo dục. Quan tâm hơn nữa công tác giáo dục đạo đức, lối sống, để khắc phục hiện tượng một số cá nhân thiếu ý thức trách nhiệm cộng đồng, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích chung, ảnh hưởng đến tinh thần đoàn kết. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về truyền thống văn hóa và lịch sử dân tộc, qua đó, nâng cao nhận thức của người dân về giá trị của tinh thần đoàn kết. Việc đưa vào chương trình học ở các cấp học về lòng yêu nước và trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc cũng rất quan trọng, góp phần củng cố và phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, phát luật, khắc phục hiện tượng thiếu những quy định cụ thể về trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong việc phát huy sức mạnh tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; xác định rõ và hình thành những chế tài xử lý nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Việc ứng dụng khoa học công nghệ trong mọi lĩnh vực sẽ tạo ra những bước tiến mới trong phát triển kinh tế - xã hội, từ đó thu hút nhân tài và tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân góp sức vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Kết luận
Phát huy sức mạnh của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh hiện nay là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong tập hợp mọi lực lượng, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Để phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc trong kỷ nguyên mới, cần có sự kết hợp hài hòa giữa giáo dục, chính sách, hoạt động kinh tế và văn hóa, qua đó tạo nền tảng vững chắc để toàn dân tộc đoàn kết, chung tay xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Luôn ghi nhớ bài học lịch sử của dân tộc mà Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”(16).
_________________
Ngày nhận bài: 02-4-2025; Ngày bình duyệt: 7-4-2025; Ngày duyệt đăng: 3-5-2025.
Email tác giả: dungbuitcthb@gmail.com
([1]), (6), (9), (11), (12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.103 - 104, 172, 34-35, 88-89, 89.
(2) Nguyễn Phú Trọng: Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.17.
(3) Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24-11-2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.272.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, tr.186.
(7) Vũ Hồng Sơn, Phan Mạnh Toàn (Đồng chủ biên): Phát huy khát vọng phát triển và sức mạnh văn hóa của con người Việt Nam trong thời kỳ mới (Sách chuyên khảo), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2023, tr.55.
(8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2016, tr.160.
(10) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.104.
(13) Nguyễn Ngọc Thiện, Từ Thị Loan (Đồng chủ biên): Hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.208.
(14) Hội đồng Lý luận Trung ương: 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, tr.162.
(15) Nguyễn Bá Dương, Nguyễn Văn Quang (Đồng chủ biên): Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr.146.
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Sđd, tr.256.
ThS BÙI ĐỨC DŨNG
Trường Chính trị tỉnh Hòa Bình