Một số vấn đề lý luận về chính sách xã hội sau gần 40 năm đổi mới đất nước
CTTBTG - Nhìn lại sau gần 40 năm thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về các chính sách xã hội, từ những chính sách cụ thể về xóa đói, giảm nghèo, về bảo hiểm, hưu trí, trợ cấp xã hội, về giải quyết lao động, việc làm, người có công với cách mạng, vùng miền núi, hải đảo… đã ngày càng hoàn thiện, góp phần phát huy hiệu quả trong việc nâng cao đời sống cho mỗi người dân, đồng thời bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Bài viết khái quát sự phát triển về nhận thức và thực tiễn thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới. Tổng quát những kết quả đạt được và bối cảnh tác động tới việc thực hiện các chính sách xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Trên cơ sở đó, gợi mở các vấn đề về lý luận và thực tiễn trong tiếp cận xây dựng, thực hiện chính sách xã hội thích ứng với bối cảnh mới.
1. Tiến trình phát triển nhận thức về chính sách xã hội ở Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới
Chính sách xã hội là chính sách của Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, liên quan tới lợi ích và sự phát triển của con người, cộng đồng và toàn xã hội của quốc gia. Nội dung cơ bản của chính sách xã hội, gồm: chính sách đối với người có công; chính sách an sinh xã hội; chính sách phúc lợi xã hội; chính sách việc làm; chính sách xóa đói, giảm nghèo; chính sách về sức khỏe cộng đồng; chính sách đối với đồng bào dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa; các chính sách bảo đảm công bằng, bình đẳng cho người dân tiếp cận các dịch vụ cơ bản, thiết yếu về y tế, giáo dục, văn hóa…; chính sách đối với những người yếu thế…
Chính sách xã hội có ý nghĩa chính trị quan trọng, là một trụ cột tạo nên sự phát triển bền vững của quốc gia. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn xác định chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững.
Ngay tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng chỉ rõ: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc… thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”1. Vì vậy: “Cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên”2. Quan điểm của Đảng đã nhận thức rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội trong sự thống nhất với chính sách kinh tế. Điều này, đặt nền móng cho sự định hình lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách xã hội, lấy con người là trung tâm khi bước vào thời kỳ đổi mới.
Đại hội VII (năm 1991), Đảng nêu rõ mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế; kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của Nhân dân. Trong đó, nhấn mạnh: phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (Đại hội VII) cũng chỉ ra phương hướng lớn của chính sách xã hội, đó là: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”3.
Tại Đại hội VIII (năm 1997), Đảng đề ra phương châm: “Các vấn đề chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời, động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”4. Các vấn đề mà chính sách xã hội phải can thiệp, giải quyết cho hiệu quả là tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo; các chính sách đối với người có công, chính sách dân số, giải quyết các tệ nạn xã hội, các vấn đề về y tế, giáo dục…
Đại hội IX (năm 2001), nội dung chính sách xã hội hướng nhiều hơn vào tính công bằng, bình đẳng và bao quát các vấn đề xã hội mà thực tiễn phát triển đang đặt ra trong tiến trình phát triển đất nước, nhất là tạo động lực mạnh mẽ trong sản xuất, tăng năng suất lao động, khuyến khích Nhân dân làm giàu hợp pháp. Giai đoạn này, Đảng xác định: “Giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ bản. Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội, sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động thất nghiệp. Các chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hóa, đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội”5.
Đại hội X (năm 2006), Đảng xác định rõ hơn về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đặc biệt, là xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân; đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động trình độ cao… Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu nhập6.
Tại Đại hội XI (năm 2011), các định hướng, nhiệm vụ của chính sách xã hội hướng tới nhiều hơn vào con người, chú trọng sự phát triển hài hòa giữa đời sống vật chất và tinh thần, sự đồng bộ giữa chính sách xã hội với kinh tế và văn hóa. Đảng cũng đã bổ sung vào cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ với quan điểm: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách”7.
Đặc biệt, tại Hội nghị lần thứ V, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020 (gọi tắt là Nghị quyết 15). Đây là nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng về chính sách xã hội, trong đó quan điểm xuyên suốt: “là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội” và “Hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, bảo đảm bền vững, công bằng”.
Trong Nghị quyết 15 cũng nêu rõ: “Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển. Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ”. Nhiệm vụ, giải pháp thực hiện chính sách xã hội tập trung vào chính sách ưu đãi người có công và nhóm chính sách bảo đảm an sinh xã hội với các trụ cột: (1) Việc làm, thu nhập và giảm nghèo; (2) Bảo hiểm xã hội; (3) Trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; (4) Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số.
Tiếp đến Đại hội XII (năm 2016), cách tiếp cận về chính sách xã hội có sự thay đổi về chất, khi chú trọng nhiều hơn tới việc bảo đảm và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Đại hội XII chỉ rõ nhiệm vụ của chính sách xã hội là quản lý tốt sự phát triển xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội; thực hiện tốt chính sách với người có công; nâng cao chất lượng sống, chăm sóc sức khỏe cho người dân và xây dựng môi trường sống lành mạnh, văn minh, an toàn. Trong đó, cần “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện”8. Cũng trong giai đoạn này, có nhiều chính sách xã hội, như: Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp; Nghị quyết số 28-NQ/TW 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
Tiếp tục phát triển quan điểm trên, trong Văn kiện của Đại hội XIII, Đảng bổ sung và hướng tới tính công bằng, bền vững, hài hòa, đồng bộ, bao trùm và nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách xã hội, đó là: “Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người” và “Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế. Cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng dựa trên nguyên tắc đóng – hưởng, chia sẻ – bền vững”9.
Như vậy, trải qua các kỳ đại hội, nhận thức lý luận về chính sách xã hội của Đảng từng bước phát triển, từ điểm khởi đầu là nhận rõ vai trò của chính sách xã hội, cho đến trở thành trụ cột và đồng bộ với các chính sách phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; từ việc từng bước xác lập các nội dung của chính sách xã hội theo hướng đơn lẻ tiến đến bao trùm, toàn diện và bám sát vào các chuẩn mực chung của thế giới và từ cách tiếp cận chính sách phòng ngừa, cho đến giảm thiểu, khắc phục rủi ro cho đến nâng cao năng lực thích ứng, phù hợp. Điều đó thể hiện sự nhất quán của Đảng về vai trò của chính sách xã hội, làm cơ sở cho việc định hình nhận thức và thực tiễn thực hiện chính sách xã hội lấy con người làm trung tâm ở Việt Nam.
2. Những kết quả đạt được của việc thực hiện chính sách xã hội sau gần 40 năm đổi mới đất nước
Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng về chính sách an sinh xã hội, Nhà nước đã cụ thể hóa thành pháp luật, chính sách, chương trình mục tiêu quốc gia và tổ chức thực hiện. Hệ thống chính sách, pháp luật về chính sách an sinh xã hội ngày càng hoàn thiện tạo khuôn khổ pháp lý và khung chính sách cho các cấp, các ngành và địa phương thực hiện hiệu lực, hiệu quả, đặc biệt là các chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách bảo hiểm, chính sách trợ cấp xã hội, chính sách về lao động việc làm, chính sách đối với người có công… đã thực sự góp phần tích cực nâng cao đời sống của Nhân dân, bảo đảm các mục tiêu “tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng, xã hội” của Đảng và Nhà nước.
Kể từ khi có Nghị quyết 15 – Nghị quyết chuyên đề về chính sách xã hội đã định hình rõ nét khung khổ chính sách xã hội ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 2013, cũng kế thừa, chắt lọc những quan điểm lập hiến trước đó, đưa rõ các nội dung mới về quyền con người, lao động, việc làm, y tế, giáo dục, văn hóa… đã đặt tiền đề cho việc hoàn thiện khung pháp lý chính sách xã hội. Tiếp đó, việc Quốc hội thông qua Luật Việc làm năm 2013, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật Bảo hiểm y tế năm 2014, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2020… và các chương trình mục tiêu quốc gia của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương… đã định hình hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam tương ứng với các chuẩn quốc tế và các thông lệ phổ quát nhất về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Tính đến nay, các trụ cột cơ bản theo chuẩn quốc tế của hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội đã được hình thành và triển khai thực hiện ở Việt Nam, gồm: bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế; bảo hiểm thất nghiệp; cứu trợ xã hội; trợ giúp và ưu đãi xã hội; ưu đãi đối với có công; giảm nghèo bền vững; đào tạo nghề, lao động, việc làm… Các trụ cột được tiếp cận ở trên cả 3 phương diện: (1) Phòng ngừa rủi ro, (2) Giảm thiểu rủi ro và (3) Khắc phục rủi ro. Đồng thời, từng bước nâng cao năng lực thích ứng và mở rộng cơ hội tiếp cận, thụ hưởng phúc lợi xã hội công bằng, bình đẳng.
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 15 của Đảng, trong 26 chỉ tiêu mà Nghị quyết 15 nêu ra đã có 5 chỉ tiêu vượt và hoàn thành trước thời hạn, gồm: nhà ở cho người có công; trợ giúp xã hội; trợ giúp xã hội cho người cao tuổi; tỷ lệ đi học đúng tuổi; bảo hiểm y tế; tiêm chủng mở rộng. 16 chỉ tiêu đạt vào năm 2020, gồm: mức sống gia đình người có công; mức trợ cấp người có công; thất nghiệp chung; thất nghiệp thành thị; giảm nghèo chung; giảm nghèo tại các huyện, xã có tỷ lệ nghèo cao; thu nhập bình quân đầu người hộ nghèo; trợ giúp xã hội đột xuất; trẻ em đi học trung học cơ sở đúng tuổi; người biết chữ từ 15 tuổi; lao động qua đào tạo; tiêm chủng cho trẻ dưới 1 tuổi; phòng, chống lao; phủ sóng phát thanh truyền hình; đài truyền thanh xã ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Việt Nam hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu thiên niên kỷ, cải thiện chỉ số phát triển con người HDI, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường và nâng cao phúc lợi xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Thực hiện có hiệu quả chính sách giảm nghèo bền vững. Người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người yếu thế được Nhà nước và xã hội trợ giúp thường xuyên, kịp thời, hiệu quả. Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế ngày càng mở rộng và trở thành trụ cột quan trọng của an sinh xã hội. Hệ thống dịch vụ xã hội được cải thiện, cơ bản bảo đảm quyền học tập, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin truyền thông của người dân… Một số kết quả cụ thể của việc thực hiện chính sách xã hội trong gần 40 năm đổi mới, đó là:
(1) Theo báo cáo phát triển con người toàn cầu 2021/2022 của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc UNDP, Chỉ số phát triển con người HDI năm 2021 của Việt Nam là 0,703 tăng 13 bậc từ 128/187 (năm 2011) lên 115/191. Trong “Báo cáo phát triển con người 2019”, UNDP đánh giá Chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã tăng đáng kể. Đặc biệt, UNDP đánh giá cao về nỗ lực bảo đảm bình đẳng trong cơ hội phát triển giáo dục của Việt Nam10.
(2) Các chính sách ưu đãi người có công được quan tâm đặc biệt và thực hiện tốt, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” được triển khai sâu rộng. Ưu đãi xã hội đối với người có công đã bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, công khai, công bằng xã hội. Cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công, có trên 1,2 triệu người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hằng tháng. Hiện 98,6% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn11.
(3) Việt Nam đã đạt được những thành tựu giảm nghèo ấn tượng trong thập kỷ qua, đặc biệt liên quan đến tình trạng nghèo cùng cực giảm từ 16,8% năm 2010 xuống còn 5% năm 2020 theo chuẩn nghèo của các nước có mức thu nhập trung bình thấp của Ngân hàng Thế giới12. Theo Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025, trong đó có chính sách về ngân sách ưu tiên tập trung nguồn lực cho các huyện nghèo, xã nghèo và người nghèo.
(4) Chính sách trợ giúp xã hội đã mở rộng về đối tượng, tăng mức hưởng, thực hiện đúng mục đích, đúng đối tượng và đạt hiệu quả. Số người hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên tăng lên hằng năm, đạt 3,509 triệu người năm 2021 (bao phủ 3,5% dân số), trong đó trên 55% là người cao tuổi13.
(5) Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã triển khai nhiều chương trình và giải pháp tạo việc làm đồng bộ, tích cực, hiệu quả, hằng năm giải quyết việc làm cho 1,5 – 1,6 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp chung duy trì ổn định ở mức dưới 3%. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%14. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội ngày càng mở rộng, ước tính đạt 19 triệu người năm 2022.
(6) Việt Nam đã bảo đảm việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin cho người dân. Tiêu biểu, phổ cập giáo dục đã hoàn thành trước thời hạn từ cấp mầm non (trẻ 5 tuổi) đến trung học cơ sở. Trẻ em đi học đúng tuổi cấp Tiểu học đạt 99% từ năm 2015; cấp Trung học cơ sở đạt trên 95% năm 202015.
(7) Năm 2010, cả nước có 7,8 triệu lượt người được hưởng bảo hiểm xã hội, đến tháng 9/2020, con số này đã tăng lên hơn 15,5 triệu người, tương ứng 31,5% lực lượng lao động trong độ tuổi; có gần 13 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp (đạt 26,2% lực lượng lao động trong độ tuổi)16. Đến hết năm 2021, có 88,8 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm 91% dân số17. Y tế dự phòng được tăng cường, đã ngăn chặn được các bệnh dịch nguy hiểm, không để xảy ra dịch trên quy mô lớn, thành công ngăn ngừa các đợt bùng phát trong đại dịch Covid-19.
(8) Về nước sạch, Chính phủ đã tập trung nguồn lực phát triển mạng lưới cấp nước sạch nông thôn, nhất là tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh tăng từ 80,5% năm 2012 lên 90% năm 202118.
Những kết quả Việt Nam đã đạt được các tổ chức quốc tế và Liên hiệp quốc đánh giá cao, là một trong những hình mẫu trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, thực hiện chính sách an sinh xã hội. Điều đó, minh chứng cho tính ưu việt trong việc thực hiện chính sách xã hội lấy con người làm trung tâm của Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, đang đặt ra những thách thức về cả lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách xã hội.
3. Bối cảnh mới tác động tới thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam
Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đang phát triển trong bối cảnh VUCA (Volatility – biến động, Uncertainty – không chắc chắn, Complexity – phức tạp, Ambiguity – mơ hồ) đã đặt ra nhiều thách thức cho không chỉ Việt Nam và các quốc gia trên thế giới trong thực hiện các chính sách xã hội, hướng đến phát triển bền vững.
Các đại dịch, thiên tai, biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan diễn biến ngày càng khó lường, khó dự báo, hậu quả ngày càng khốc liệt. Cùng với đó, là việc nổi lên các vấn đề an ninh phi truyền thống, sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0… đang tạo ra những thách thức cho các quốc gia ứng phó với những tình huống khẩn cấp, bất thường.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, với sự phát triển của người máy, trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây (cloud computing), dữ liệu lớn (Big Data)… làm xuất hiện nhiều ngành, nghề với nhiều việc làm mới, nhưng cũng làm cho những ngành nghề lao động chân tay, có tính chất lặp lại sẽ mất đi, lao động trình độ thấp, và không sáng tạo sẽ bị mất việc làm. Quá trình đào thải sẽ diễn ra nhanh hơn, nhiều đối tượng sẽ bị “bỏ lại phía sau” nếu không thích nghi nhanh với cuộc cách mạng 4.0. Điều đó, buộc các quốc gia phải có những chính sách về giáo dục, chính sách việc làm kịp thời cho quá trình thích ứng.
Việt Nam mặc dù đang trong giai đoạn dân số vàng nhưng thách thức đặt ra là xu hướng già hóa dân số cũng tăng nhanh. Theo Tổng cục Thống kê, tính trung bình trong giai đoạn 2009 – 2019, tổng dân số tăng 1,14%/năm thì dân số cao tuổi tăng tới 4,35%/năm19. Theo dự báo của Tổng cục Thống kê và Quỹ phát triển Dân số của Liên hiệp quốc, thời kỳ cơ cấu dân số vàng của Việt Nam kéo dài khoảng 33 năm, sẽ kết thúc vào năm 2039, nghĩa là chỉ còn 19 năm nữa. Cùng với đó, thời gian quá độ từ già hóa dân số sang dân số già khoảng 26 năm, từ năm 2011 – 2036, đây là khoảng thời gian chuyển đổi rất ngắn so với các quốc gia có trình độ phát triển cao, đưa Việt Nam vào nhóm quốc gia có tốc độ già hoá dân số nhanh nhất thế giới. Với tốc độ già hóa dân số nhanh, thu nhập bình quân đầu người còn thấp, nguy cơ Việt Nam rơi vào tình trạng “chưa giàu đã già” là hiện hữu. Tỷ lệ người già lại đa phần sống ở nông thôn, không có việc làm, bảo hiểm và chế độ hưu trí. Trong khi hệ thống an sinh xã hội còn non trẻ, sẽ tạo ra những thách thức lên các chính sách an sinh xã hội.
Việt Nam vẫn là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng tỷ trọng lao động trong khu vực phi chính thức vẫn rất lớn. Theo Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, khoảng 76% tổng số lao động và 55 – 60% lao động phi nông nghiệp vẫn làm việc trong khu vực phi chính thức20. Tỷ lệ lao động phi chính thức cao sẽ tác động tới an sinh xã hội ở trên 3 phương diện: (1) Người lao động không có bảo hiểm khi gặp những rủi ro như thất nghiệp, thiên tai, dịch bệnh… (2) Thu nhập thấp và mức độ sẵn sàng chi tài chính cho bảo hiểm xã hội kém bền vững; (3) Năng suất thấp, ít có cơ hội học tập, nâng cao năng lực trình độ. Trước tình hình này, gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1305/QĐ-TTg ngày 08/11/2023 phê duyệt Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động đến năm 2030, trong đó xác định mục tiêu tăng năng suất lao động trở thành một động lực quan trọng cho tăng trưởng nhanh, bền vững, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy liên kết vùng, phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là các trụ cột chính.
Việt Nam là một trong 5 quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất, dễ bị tổn thương bởi tác động của biến đổi khí hậu: bão, lũ, lụt, hạn hán, nước biển dâng, ngập mặn… sẽ kéo theo dịch bệnh, đói nghèo và sinh kế sống của người dân, hộ gia đình vùng bị ảnh hưởng. Khoảng 60% diện tích đất và 70% dân số của Việt Nam phải hứng chịu nhiều thiên tai21. Đây là một trong những thách thức không chỉ làm tăng ngân sách khắc phục hậu quả biến đổi khí hậu, mà kéo theo một loạt các chính sách liên quan tới an sinh xã hội, hỗ trợ người yếu thế, việc làm, thu nhập, di dân, giáo dục, quyền lợi của phụ nữ và trẻ em…
Khoảng cách giàu nghèo, phân hóa xã hội ngày càng gia tăng cũng là một thách thức đối với Việt Nam khi thực hiện chính sách xã hội. Trong 2 thập niên đầu thế kỷ XXI, khoảng cách thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất với 20% nghèo nhất đã tăng từ 8,2 lần (năm 2002) lên hơn 10,2 lần (năm 2019). Tiến trình này trực tiếp dẫn đến hệ số bất bình đẳng (Gini) đã chạm ngưỡng bất bình đẳng cao từ năm 2016 với mức trên 0,4. Điều này, kéo theo các xung đột lợi ích, nếu không giải quyết hài hòa, sẽ làm gia tăng bất ổn xã hội.
Đời sống người dân ngày càng nâng cao, nhu cầu về chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục cũng được nâng cao. Điều này kéo theo các chuẩn cơ bản trong tiếp cận các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu cũng nâng cao theo mức sống bình quân của xã hội và đáp ứng những chuẩn mực chung của thế giới. Do đó, sẽ ra tăng ngân sách nhà nước chi cho phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Mặt khác, những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương sẽ khó khăn hơn trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu. Nguy cơ gia tăng số người “bị bỏ lại phía sau” trong tiến trình phát triển xã hội.
Việt Nam đang từng bước bao phủ các trụ cột của hệ thống an sinh xã hội. Đã có chính sách cho người già trên 80 tuổi, người nghèo, người hưởng bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, đối tượng cận nghèo, đối tượng người già từ 60 – 79 tuổi, đối tượng chưa có điều kiện tham gia đóng bảo hiểm xã hội… cũng là những đối tượng dễ bị tổn thương, cần hỗ trợ khi gặp những cú “sốc” bất định, bất trắc của môi trường sống. Điều này cho thấy nhà nước vẫn cần phải có cách tiếp cận bao trùm, toàn diện để bảo đảm an sinh xã hội toàn dân, không ai bị bỏ lại phía sau.
Trong bối cảnh mới, với sự dịch chuyển từ liên kết dọc, sang liên kết ngang, đa chiều cạnh. Liên kết dọc mang tính thứ bậc, mệnh lệnh uy quyền dễ độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, cát cứ và cứng nhắc, áp đặt. Liên kết ngang, đa chiều cạnh với sức mạnh kết nối vượt ra khỏi không gian và thời gian có tính chất hợp tác, phối hợp, bình đẳng, đề cao tính liên kết cá nhân, liên kết nhóm nhiều hơn. Từ đó, khả năng kết nối cộng đồng, hiệu quả lan tỏa, cộng hưởng nhanh, hiệu quả hơn so với liên kết dọc trong thực hiện an sinh xã hội. Tính dân chủ của xã hội cao hơn, tiếng nói của các chủ thể trong xã hội vào quản trị nhà nước sẽ nhiều hơn, bình đẳng hơn. Quản lý xã hội, quản trị nhà nước có sự tham gia của nhiều chủ thể. Trong thực hiện chính sách xã hội ngày càng có nhiều chủ thể tham gia cùng với Nhà nước. Điều này cũng đặt ra thách thức về năng lực quản trị của Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách xã hội.
4. Những vấn đề đặt ra trong việc hoàn thiện và phát triển lý luận về chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, cần phải tập trung vào việc nhận diện đúng, trúng và toàn diện các vấn đề xã hội mới nảy sinh cần ưu tiên trong hoạch định và thực hiện chính sách xã hội thích ứng với bối cảnh VUCA: các cú sốc của người dân và xã hội khi gặp khủng hoảng, biến đổi khí hậu, bình đẳng giới, các bệnh xã hội của thời đại công nghệ số… từ đó có các biện pháp ứng phó với tình trạng khẩn cấp, năng lực cần thiết để thích ứng với những thách thức mới.
Thứ hai, đổi mới tư duy thiết kế chính sách dựa trên sự đồng thuận, bao trùm, đa tầng, toàn diện, hệ thống để bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội bền vững, hướng tới mục tiên an sinh xã hội toàn dân, “không ai bị bỏ lại phía sau” trong quá trình phát triển. Đồng thời, các tiêu chuẩn hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam cũng phải đáp ứng theo những chuẩn mực chung theo thông lệ quốc tế.
Thứ ba, tiếp cận hạnh phúc trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, lấy con người làm trung tâm trong tất cả các chính sách. Trong kỷ nguyên phát triển từ GDP sang kỷ nguyên hạnh phúc, tiếp cận hạnh phúc trong phân tích chính sách là một kênh thông tin mới bổ sung cho cách tiếp cận truyền thống, giúp các nhà hoạch định chính sách có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong việc đưa ra những quyết sách điều hành đất nước. Bảo đảm sự đồng bộ trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội với các chính sách kinh tế, chính sách văn hóa, lao động và việc làm. Chính vì vậy, Liên hiệp quốc đã đưa ra khuyến cáo, các quốc gia hãy xem chỉ số hạnh phúc là thước đo đúng đắn của tiến bộ của xã hội và là mục tiêu của chính sách công, trong đó có chính sách xã hội.
Chỉ số hạnh phúc quốc gia là “dự báo” cho sự phát triển toàn diện, bền vững của mỗi quốc gia. Từ việc chỉ chú trọng vào các chỉ số phát triển kinh tế, giờ đây khi coi trọng tiêu chí hạnh phúc, các chính sách và hành động của Chính phủ còn đặt các chỉ tiêu kinh tế trong mối tương quan với các tiêu chí về an toàn, an lành, sự thân thiện, nhân văn, những trải nghiệm và cảm xúc tích cực bên trong của từng cá nhân trong xã hội. Điều đó giúp họ vững vàng vượt qua những thách thức, những cú sốc do thảm họa, thiên tai, dịch bệnh, bất ổn xã hội… Chỉ số hạnh phúc trở thành một đại lượng quan trọng trong đánh giá về tính hiệu quả, sự tín nhiệm, niềm tin của dân chúng, xã hội vào đối với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ. Điều này cũng được Đảng ta khẳng định trong Nghị quyết Đại hội XIII: “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”.
Thứ tư, tiếp cận xây dựng chính sách xã hội từ “cứu trợ” sang “hỗ trợ” và nâng cao năng lực cho các đối tượng yếu thế xã hội sẵn sàng, chủ động phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro. Bảo đảm tính công bằng, bình đẳng về cơ hội, điều kiện được hưởng chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho toàn dân.
Thứ năm, xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp với xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội. Xây dựng và hoàn thiện các chỉ báo mới phản ánh sự biến đổi cơ cấu xã hội phù hợp với trình độ phát triển và mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm sự tiếp cận công bằng, bình đẳng và thụ hưởng thành quả của các giai cấp, tầng lớp xã hội, giới tính, cơ cấu lao động, cơ cấu tuổi, cơ cấu ngành nghề… Xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp, giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội…
Thứ sáu, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật để tạo khung khổ chính sách và hành lang pháp lý cho các trụ cột của hệ thống an sinh xã hội: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp… Đồng thời, hoàn thiện hành lang pháp lý cho các vấn đề mới phát sinh, như: hoạt động từ thiện nhân đạo, cứu trợ, hỗ trợ của người dân, tổ chức và cộng đồng…
Thứ bảy, cách tiếp cận xây dựng và thực hiện chính sách xã hội có sự tham gia của nhiều chủ thể trong xã hội nhằm hướng tới sự đồng thuận và cộng đồng trách nhiệm của xã hội trong ứng phó với những tình trạng khẩn cấp, bất ngờ và sự chung tay của toàn xã hội vì sự phát triển bền vững, “không ai bị bỏ lại phía sau”. Tăng cường sự tham gia thực chất và chất lượng của người dân, các tổ chức xã hội và doanh nghiệp vào hoạch định và thực thi chính sách xã hội.
Thứ tám, nâng cao năng lực quản trị nhà nước, năng lực của đội ngũ quản trị và đội ngũ thực thi chính sách xã hội là thích ứng với bối cảnh mới. Chú trọng nâng cao các năng lực: hoạch định chính sách; năng lực thấu hiểu, thấu cảm; năng lực thích ứng; năng lực quản trị hệ thống, quản trị tổ chức; quản trị truyền thông cho đội ngũ cán bộ, công chức tham gia hoạch định và thực thi chính sách xã hội.
Trong hoạch định và thực thi chính sách xã hội, cần phải thay đổi từ tư duy “quản lý” sang tư duy “phục vụ”, từ tư duy “xin – cho” sang tư duy “yêu cầu – đáp ứng” và từ cách tiếp cận “nghĩa vụ” sang tiếp cận “bảo đảm quyền” của các bên liên quan. Hoạt động của Chính phủ chuyển từ vai trò là người cho phép sang vai trò là người bảo đảm, người tạo điều kiện cho các chủ thể khác có không gian sáng tạo và phát triển; chuyển từ vai trò là chủ thể trực tiếp cung ứng dịch vụ công, phân phối phúc lợi sang vai trò là người bảo đảm an sinh xã hội và cung cấp dịch vụ công cơ bản, tối thiểu.
5. Kết luận
Như vậy, sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, từ nhận thức lý luận đến thực tiễn về chính sách xã hội của Đảng đã từng bước phát triển và hoàn thiện, thể hiện sự nhất quán của Đảng về vai trò của chính sách xã hội và trên cơ sở lấy con người làm trung tâm, đất nước đã không ngừng phát triển kinh tế và có sự gắn kết với việc thực hiện các chính sách xã hội, từ đó nâng cao chất lượng an sinh xã hội, chăm lo đời sống sức khỏe cho người dân theo hướng tiến bộ, công bằng xã hội, tiếp cận các chuẩn mực quốc tế; đồng thời, xác định rõ thực hiện chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội cần toàn diện, hiệu quả và bền vững.
Chú thích:
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. H. NXB Chính trị Sự thật, tr. 86, 86.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-khoa-vi-trinh-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vii-cua-dang-1800, ngày 22/02/2017.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-viii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-vii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-viii-cua-dang-1549, ngày 22/02/2017.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-ix/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-viii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-ix-cua-dang-1545, ngày 24/9/2015.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-x/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-ix-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-x-cua-dang-1537, ngày 24/9/2015.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-x-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xi-cua-dang-1526, ngày 24/9/2015.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang-1600, ngày 31/3/2016.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-3734, ngày 23/3/2021.
10. UNDP Việt Nam. Việt Nam có thể khôi phục đà phát triển con người: UNDP. https://www.undp.org/vi/vietnam/press-releases/viet-nam-co-the-khoi-phuc-da-phat-trien-con-nguoi-undp, ngày 09/9/2022.
11. Phúc Minh. Mỗi năm dành khoảng 31.000 tỷ đồng chăm lo cho người có công. https://vneconomy.vn/moi-nam-danh-khoang-31-000-ty-dong-cham-lo-cho-nguoi-co-cong.htm, ngày 27/7/2022.
12. Đức Hiệp. 10 triệu người Việt Nam đã thoát khỏi đói nghèo trong 10 năm. https://daibieunhandan.vn/infographic/10-trieu-nguoi-Viet-Nam-da-thoat-khoi-doi-ngheo-trong-10-nam-i287157/, ngày 02/5/2022.
13. Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng, toàn diện, phổ cập và hiện đại. https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/an-sinh-xa-hoi.aspx?CateID=0&ItemID=19535, ngày 03/11/2022.
14. Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội. Đáp ứng nhu cầu an sinh xã hội cho nhân dân đến năm 2030. https://hanoi.baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/hoat-dong-so-ban-nganh.aspx?CateID=0&ItemID=31681, ngày 19/9/2022.
15. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Kế hoạch số 129/KH-BGDĐT ngày 07/02/2013 về hành động vì trẻ em của ngành Giáo dục giai đoạn 2013 – 2020.
16. Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Ngành BHXH: Tăng tốc hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu, nhiệm vụ năm 2020. https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/linh-vuc-bao-hiem-xa-hoi.aspx?CateID=0&ItemID=15579, ngày 09/10/2020.
17. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 88,99% dân số. https://www.molisa.gov.vn/baiviet/231657?tintucID=231657, ngày 08/7/2022.
18. Tổng cục Khí tượng thủy văn, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Tuần lễ quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường. http://vmha.gov.vn/public/tin-tuc-tai-nguyen-nuoc-va-moi-truong-114/tuan-le-quoc-gia-nuoc-sach-va-ve-sinh-moi-truong-14465.html, ngày 20/4/2023.
19. Tổng cục Thống kê (2021). Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. Già hó a dân số và người cao tuổi ở Việt Nam. Hà Nội, tr. vii.
20. Hội đồng Lý luận Trung ương – Ngân hàng Thế giới tổ chức Hội thảo khoa học: “Những vấn đề lý luận – thực tiễn qua 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XI) về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020”. Hà Nội, ngày 30/9/2022.
21. Thanh Tùng. Thiên tai bất thường, gây thiệt lớn. https://www.monre.gov.vn/Pages/thien-tai-bat-thuong,-gay-thiet-hai-lon.aspx#:~:text=Ch%E1%BB%89%20t%C3%ADnh%20ri%C3%AAng%20trong%2020,th%E1%BA%A3m%20h%E1%BB%8Da%20t%E1%BB%AB%20thi%C3%AAn%20tai, ngày 15/3/2022.
Tài liệu tham khảo:
1. Đoàn Minh Huấn (2021). Phúc lợi xã hội góp phần bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ mới. Đề tài khoa học cấp bộ, Hội đồng khoa học Tạp chí Cộng sản.
2. Yuval Noah Harari (2020). 21 bài học cho thế kỷ 21. H. NXB Thế giới.
PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu
Học viện Hành chính Quốc gia