Kết nối, phân bổ, sử dụng hiệu quả nguồn lực nhà nước, nguồn lực doanh nghiệp và nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa
PGS, TS. ĐOÀN MINH HUẤN
Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
CTTBTG - Đóng vai trò quyết định cho phát triển văn hóa không chỉ cần đến gia tăng nguồn lực, mà còn phải đổi mới cách sử dụng nguồn lực. Trong điều kiện hiện nay, nguồn lực cho phát triển văn hóa cần phải được gia tăng quy mô đầu tư gắn với phân bổ, sử dụng hiệu quả, tăng cường tính kết nối giữa nguồn lực nhà nước, doanh nghiệp và xã hội.
Định dạng đặc trưng các loại nguồn lực phục vụ phát triển văn hóa
Nguồn lực là tất cả các “yếu tố đầu vào” sẵn sàng đưa vào sử dụng hoặc dự trữ để phục vụ sản xuất của một quốc gia, địa phương, doanh nghiệp, gia đình hoặc cá nhân. Theo phương thức tồn tại, có nguồn lực vật thể và nguồn lực phi vật thể; theo tính chất có nguồn lực tự nhiên (vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên), hệ thống tài sản quốc gia, nguồn lực xã hội - nhân văn (tri thức, lao động, di sản văn hóa, thông tin, khoa học - công nghệ...), nguồn lực tài chính; theo chủ sở hữu có nguồn lực nhà nước, nguồn lực doanh nghiệp và nguồn lực xã hội.
Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư khiến quan niệm về nguồn lực có nhiều thay đổi. Trong khi các nguồn lực truyền thống ngày càng cạn kiệt thì con người lại phát hiện, phát minh những nguồn lực mới không chỉ bù đắp những thiếu hụt, bổ sung nhu cầu phát triển, mà còn mang tính “xanh”, “sạch”, thân thiện môi trường, như nguồn năng lượng tái tạo, nguồn lực tri thức, nguồn lực thông tin... Nhờ thành tựu khoa học - công nghệ mà liên kết, “dữ liệu hóa” khiến thông tin trở thành nguồn lực quan trọng; làm cho phế thải có thể tái chế, trở thành nguồn lực “đầu vào” cho sản xuất gắn với nguyên lý tuần hoàn; biến những nơi có tiềm năng năng lượng gió, năng lượng bức xạ nhiệt mặt trời có cơ hội phát triển các ngành năng lượng tái tạo. Tri thức ngày càng nổi lên trở thành nguồn lực quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế tri thức, đẩy các nguồn lực khác xuống hàng thứ yếu, làm đảo lộn vai trò giữa nguồn lực vô hình và hữu hình, giữa sở hữu giá trị và sở hữu hiện vật. Các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cũng được “nguồn lực hóa” phục vụ cho các ngành kinh tế dựa vào “yếu tố đầu vào” là giá trị văn hóa, như kinh tế sáng tạo, công nghiệp văn hóa...
Nguồn lực có tính giới hạn, tính cạnh tranh và tính động. Nguồn lực tự nhiên truyền thống ngày càng khan hiếm, do không có nhiều khả năng tái tạo trước nhu cầu khai thác, sử dụng theo cấp số nhân của con người, nhất là đất đai, năng lượng hóa thạch... Tính khan hiếm đặt ra yêu cầu phải sử dụng nguồn lực không tái tạo một cách tiết kiệm, hiệu quả, bảo đảm hài hòa giữa khai thác phục vụ trước mắt và dự trữ, bồi đắp vì sự phát triển bền vững trong tương lai. Tính cạnh tranh nguồn lực ngày càng khốc liệt trong nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, không chỉ giữa các chủ thể trong từng quốc gia, mà kể cả giữa các quốc gia trên phạm vi toàn cầu. Không có cuộc chiến tranh, xung đột nào giữa các quốc gia nằm ngoài mục đích chiếm hữu, kiểm soát nguồn lực, như tranh giành lãnh thổ, mở rộng thị trường, kiểm soát các vị trí địa chiến lược, giành giật dầu mỏ, nguồn nước ngọt... Ngày nay, cạnh tranh chiến lược về khoa học, công nghệ, thu hút nhân tài trở nên phổ biến trong quan hệ quốc tế cũng không nằm ngoài tranh giành nguồn lực. Tính “động” thể hiện ở khả năng dịch chuyển của nguồn lực từ chỗ sản xuất kém hiệu quả đến chỗ sản xuất hiệu quả hơn, khiến các quốc gia luôn tìm cách cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh để nâng cao sức hấp dẫn thu hút nguồn lực, còn các nhà đầu tư luôn tìm bến đỗ an toàn, hiệu quả, sinh lời cao cho tài sản của mình. Tính “động” của nguồn lực còn thể hiện ở khả năng chuyển hóa, tái tạo nguồn lực, nhất là nguồn lực tri thức, thông tin, nguồn lực văn hóa...
Nguồn lực có vai trò to lớn đối với toàn nhân loại, từng quốc gia - dân tộc và mỗi chủ thể sản xuất, kinh doanh. Đất đai là tài sản quốc gia, là tư liệu sản xuất quan trọng bậc nhất, là không gian tổ chức đời sống xã hội con người. Từ đất mà sản xuất ra của cải vật chất, được sử dụng để dựng nhà cửa, lập thành cộng đồng, tổ chức đời sống dân sinh, rồi khi chết con người cũng trở về với đất. Đất không chỉ là nguồn lực thuần túy, mà một khi mang dấu ấn bàn tay, khối óc, mồ hôi, xương máu của con người thì lại chứa đựng giá trị văn hóa, vì vậy, đất thường được thiêng hóa (Đất Mẹ, Thổ Thần...). Khoáng sản là nguyên, nhiên liệu đầu vào cho nhiều ngành sản xuất vật chất, kể cả sản xuất vật phẩm văn hóa. Tài chính là nguồn lực không thể thiếu cho mọi ngành sản xuất, giống như máu đối với cơ thể sống của con người. Thông tin được “dữ liệu hóa” trở thành một loại nguồn lực đặc biệt quan trọng, không chỉ đối với từng cá nhân, doanh nghiệp, mà cả với quốc gia. Con người là nguồn lực quan trọng nhất, bởi thông qua con người thì các nguồn lực khác từ “tiềm năng” mới biến thành “động năng”, được khai thác, sử dụng hiệu quả phục vụ cho phát triển. Tri thức trở thành nguồn lực và động lực quan trọng nhất cho đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Nguồn lực tri thức là vô tận, nếu biết chăm lo phát triển thì giá trị ngày càng tăng thêm, không bị cạn kiệt như các nguồn lực khác. Văn hóa cũng là một loại nguồn lực gắn với con người, với nền văn hóa dân tộc, chứa đựng ở cả loại hình văn hóa vật thể và phi vật thể. Nguồn lực văn hóa là một loại nguồn lực xã hội - nhân văn, càng khai thác thì giá trị càng tăng thêm, như tinh thần yêu nước, khát vọng cống hiến, lý tưởng dấn thân, tinh thần liêm chính... Nếu như các loại nguồn lực khác chỉ tạo động lực phát triển thì nguồn lực văn hóa còn mang thêm chức năng điều tiết sự phát triển - bản chất sâu xa là lấy phát triển dựa trên thúc đẩy lợi ích và phát triển dựa trên định hướng giá trị.
Phát triển văn hóa cần đến cả nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài. Nguồn lực bên ngoài có thể thuộc sở hữu các nhà nước, các định chế quốc tế, các doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các cá nhân, kể cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nguồn lực thuộc sở hữu các nhà nước, các định chế quốc tế thường là các khoản viện trợ hoàn lại hoặc không hoàn lại gắn với công nghệ, nhân lực thường dùng để phục chế, bảo tồn các di sản văn hóa. Nguồn lực của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường hướng vào phát triển các chuỗi sản phẩm du lịch, các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí, các nền tảng kỹ thuật số gắn với nhân lực chuyên biệt, công nghệ của các ngành này. Hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài để tranh thủ nguồn lực, trình độ công nghệ, tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm và dịch vụ văn hóa là một xu hướng lớn hiện nay, nhưng bản thân các nhà đầu tư nước ngoài cũng thường xuyên tìm cách trốn thuế, đặc biệt là khi tham gia trên thị trường kỹ thuật số. Nguồn lực các tổ chức phi chính phủ và cá nhân rất phong phú, đa dạng, thường tài trợ thông qua các quỹ, góp phần không nhỏ vào bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, nhất là thúc đẩy đa dạng văn hóa, bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số, bản sắc văn hóa địa phương.
Sức mạnh của nguồn lực cho phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới dựa trên cơ sở phát huy đầy đủ cả nguồn lực trong nước và nguồn lực quốc tế, nguồn lực nhà nước, doanh nghiệp và xã hội, tất cả cùng kết nối, tạo nên sức mạnh tổng hợp.
Lợi thế và giới hạn từng loại nguồn lực nhà nước, nguồn lực doanh nghiệp và nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa
Nguồn lực nhà nước có nhiều loại, như đất đai và các tài nguyên thiên nhiên (rừng, khoáng sản, nước), tài chính và tài sản công, nhân lực, khoa học - công nghệ, thông tin. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, là nguồn lực quan trọng hàng đầu cho đầu tư phát triển văn hóa, nhất là mặt bằng xây dựng các thiết chế văn hóa, không gian công cộng. Đặc trưng nền kinh tế chuyển đổi khiến nước ta còn duy trì quy mô lớn các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực văn hóa, như hãng phim, rạp hát, đơn vị biểu diễn nghệ thuật, trường đào tạo văn hóa, nghệ thuật,... mà ở đó đất đai và bất động sản trên đất đều là tài sản công. Tài chính công là nguồn lực quan trọng hàng đầu cho phát triển văn hóa, gồm chi đầu tư phát triển, chi cho sự nghiệp có tính đầu tư và chi thường xuyên. Nhân lực khu vực công bao gồm các nhà lãnh đạo, quản lý, đội ngũ sáng tạo văn hóa, nghệ thuật và người lao động tại các đơn vị sự nghiệp công lập (đoàn nghệ thuật biểu diễn, trường văn hóa nghệ thuật, hãng phim, rạp hát...). Các nhà lãnh đạo, quản lý có tư duy đúng về phát triển dựa trên văn hóa sẽ thúc đẩy phát triển văn hóa trong chính trị, đồng thời khi xây dựng bất cứ chính sách nào cũng tính toán đầy đủ chiều cạnh văn hóa khả năng tham dự của văn hóa vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng, đối ngoại. Văn nghệ sĩ, diễn viên, ca sĩ trong các đơn vị sự nghiệp công lập được chăm lo phát triển toàn diện sẽ là lực lượng nòng cốt sáng tạo các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật có giá trị. Người lao động khu vực công một khi thấm sâu văn hóa công sở, đạo đức nghề nghiệp sẽ là nhân tố quan trọng hàng đầu xây dựng văn hóa công vụ, lối sống văn minh, thúc đẩy liêm chính nghề nghiệp. Dịch chuyển nhân lực giữa khu vực công và khu vực tư trong nền kinh tế thị trường, hoặc hình thái “chân trong”, “chân ngoài” của các nghệ sĩ, diễn viên, ca sĩ... đang làm “mờ đi” tính chất công hay tư. Thông tin được “dữ liệu hóa”, “số hóa” trong lĩnh vực văn hóa cũng là một lợi thế của Nhà nước được khai thác, sử dụng để phục vụ cho phát triển văn hóa, nhất là quảng bá văn hóa và phát triển du lịch. Khoa học - công nghệ ngày càng trở thành nguồn lực trực tiếp phục vụ cho sản xuất, kinh doanh và quản lý gắn với vai trò đầu tư nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ của Nhà nước. Trong đó, khoa học - công nghệ phục vụ phát triển văn hóa có vai trò cực kỳ quan trọng, như công nghệ trên các lĩnh vực truyền thông, văn hóa giải trí, du lịch; hay khoa học xã hội - nhân văn có nhiệm vụ nghiên cứu về văn hóa và khả năng “nguồn lực hóa”, khai thác, sử dụng, phát huy các giá trị văn hóa phục vụ cho mọi mặt đời sống.
Nguồn lực nhà nước chỉ đạt được vai trò, sức mạnh khi đầu tư đạt ngưỡng, mang tính tập trung, đủ năng lực dẫn dắt, thu hút, lôi kéo nguồn lực doanh nghiệp và nguồn lực xã hội, tất cả cùng kết nối, tạo nên sức cộng hưởng cho phát triển văn hóa. Nguồn lực nhà nước đầu tư vào những khâu, những hạng mục mà tư nhân không làm hoặc chưa làm. Xác định đầu tư nhà nước vào đâu, đạt ngưỡng ra sao, phương thức như thế nào có ý nghĩa cực kỳ quan trọng cho phát triển văn hóa. Đầu tư tràn lan, không đúng trọng tâm, trọng điểm, không có khả năng kết nối, lôi cuốn tư nhân tham gia thì coi như đầu tư kém hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò của đầu tư công. Chính sách tài khóa và chính sách đất đai là hai công cụ vĩ mô quan trọng nhất mà Nhà nước sử dụng để huy động, phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính công (thuế, phí, lệ phí; chi đầu tư công phát triển; chi sự nghiệp có tính đầu tư; chi thường xuyên) và nguồn lực đất đai. Nếu muốn khuyến khích phát triển lĩnh vực nào thì Nhà nước hướng đầu tư nguồn lực tài chính tập trung vào lĩnh vực đó, gồm cả đầu tư phát triển và chi thường xuyên, thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế, phí, lệ phí; dùng ngân sách chi trả lương hoặc hỗ trợ cho nhân viên các đơn vị cung ứng các dịch vụ và sản phẩm văn hóa mà tư nhân không làm, nhất là các lĩnh vực văn hóa mang tính hàng hóa công, như nghệ thuật truyền thống, công tác tư tưởng, định hướng giá trị đạo đức, thẩm mỹ... Nhà nước cũng có thể hỗ trợ phát triển văn hóa bằng miễn thuế đất khi xây dựng các công trình mang lại phúc lợi phi thu nhập cho cộng đồng, như thiết chế văn hóa, thể thao, công viên...; xây dựng cơ sở dữ liệu số ngành văn hóa một cách thống nhất, chia sẻ các dữ liệu đó phục vụ hoạt động quản lý và phát triển văn hóa, nhất là quảng bá và phát triển du lịch; đầu tư cho nghiên cứu khoa học, công nghệ, chuyển giao kết quả nghiên cứu để ứng dụng vào sản xuất và đời sống. Tuy nhiên, nguồn lực nhà nước cũng có nhược điểm là dễ bị lãng phí, phân bổ không hiệu quả. Vì vậy, vận dụng nguyên tắc thị trường vào phân bổ, sử dụng nguồn lực nhà nước cần được chú ý, như cơ chế đặt hàng theo số lượng và định mức kỹ thuật, thúc đẩy cạnh tranh trong khu vực công, hỗ trợ cho đối tượng thụ hưởng không phân biệt khu vực công hay khu vực tư, hạn chế hỗ trợ cả gói cho đơn vị sự nghiệp công lập để tránh tạo tâm lý trông chờ, ỷ lại, không tìm cách cải thiện chất lượng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Hỗ trợ của Nhà nước cho phát triển văn hóa không chỉ giới hạn trong khu vực công, mà bao hàm cả khu vực ngoài nhà nước, nhất là các tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức cộng đồng, như miễn thuế đất, hỗ trợ đào tạo nhân lực, chia sẻ dữ liệu số, đấu thầu cạnh tranh các gói dịch vụ sử dụng ngân sách bảo đảm quyền tiếp cận của mọi chủ thể.
Nguồn lực nhà nước có hạn chế là bị chế định bởi những quy định hành chính, triển khai chậm, dễ thất thoát, lãng phí trong đầu tư nếu kiểm soát không chặt chẽ. Dịch vụ văn hóa miễn phí là một loại phúc lợi văn hóa dễ sử dụng lãng phí, ít ràng buộc trách nhiệm của người tiêu dùng. Phí, lệ phí được áp dụng có tác dụng nâng cao trách nhiệm của người tiêu dùng các dịch vụ văn hóa công cộng. Các đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước chăm lo toàn phần từ chi trả lương, kinh phí đầu tư, định hướng hoạt động... thường thiếu năng động, sáng tạo, thậm chí trông chờ, ỷ lại. Khắc phục hạn chế này đòi hỏi phải tăng tính cạnh tranh trong khu vực công, gia tăng cơ chế đặt hàng, hỗ trợ trực tiếp đối tượng thụ hưởng, áp dụng các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp vào hoạt động cung ứng dịch vụ. Khi tiền lương, thu nhập giữa khu vực tư với khu vực công quá chênh lệch, môi trường làm việc trong lĩnh vực văn hóa đòi hỏi tính tự do, dân chủ rất cao, thì dịch chuyển nhân lực từ khu vực công sang khu vực tư đặt ra những yêu cầu mới cao hơn về cải cách khu vực công. Nguồn lực nhà nước luôn đứng trước thách thức bị sử dụng không hiệu quả, lãng phí, thiếu trách nhiệm và tính giới hạn trước nhu cầu ngày càng lớn. Áp dụng nguyên tắc thị trường vào phân bổ nguồn lực nhà nước là cách thức góp phần nâng cao trách nhiệm sử dụng nguồn lực. Huy động nguồn lực doanh nghiệp và nguồn lực xã hội vào phát triển văn hóa có ý nghĩa bổ sung tính giới hạn, bù đắp thiếu hụt của nguồn lực nhà nước. Mỗi loại nguồn lực có đặc điểm, vai trò riêng, nhưng khi được kết nối sẽ tạo nên sức mạnh cộng hưởng cho phát triển văn hóa.
Nguồn lực doanh nghiệp khu vực tư nhân bao gồm vốn, tài sản, nhân lực, khoa học - công nghệ... Nguồn lực doanh nghiệp khu vực tư nhân bao giờ cũng hướng tới mục tiêu sinh lời, tối đa hóa lợi nhuận, phân bổ theo cơ chế thị trường nên thường đạt hiệu quả kinh tế cao. Tối đa hóa lợi nhuận khiến nhà đầu tư luôn phải tính toán hiệu quả sử dụng nguồn lực, bảo đảm chi phí bỏ ra thấp nhất mà khả năng sinh lời cao nhất. Khu vực doanh nghiệp tư nhân có điều kiện tiếp cận, sử dụng các công cụ thị trường (phát hành trái phiếu, cổ phiếu, vay nợ nước ngoài...) để huy động nguồn lực đầu tư phát triển mà ít bị hạn chế các điều kiện ngặt nghèo như khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nguồn nhân lực khu vực doanh nghiệp tư nhân bao giờ cũng mang tính năng động cao hơn khu vực nhà nước khi người sử dụng lao động có quyền đưa ra các mức thưởng, phạt, tuyển chọn, sa thải nhân viên,... tạo động lực cho phát triển. Tri thức quản lý, quản trị của doanh nghiệp là nguồn lực quyết định đến khả năng phát triển của doanh nghiệp khi đưa ra các quyết định, phương án sản xuất, kinh doanh đúng đắn, hiệu quả. Tri thức của người lao động trong doanh nghiệp liên quan đến khả năng nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ để hạ giá thành sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm.
Doanh nghiệp tham gia kinh doanh trong lĩnh vực văn hóa không chỉ cần vốn, đất đai, mà còn cần đến tri thức khoa học, năng lực đổi mới sáng tạo để tạo ra các sản phẩm độc đáo, khác biệt, có giá trị gia tăng cao, đặc biệt là các ngành kinh tế sáng tạo, công nghiệp văn hóa, như thiết kế thời trang, phần mềm các trò chơi giải trí điện tử, phần mềm dữ liệu số ngành văn hóa, công nghệ truyền thông, các sản phẩm công nghiệp thực phẩm chuyển tải bản sắc văn hóa dân tộc, tài nguyên bản địa (như sản phẩm OCOP - mỗi xã, phường một sản phẩm)... Một lợi thế của nhân lực trong doanh nghiệp văn hóa chính là môi trường tự do, cộng với khả năng thỏa mãn lợi ích của người sử dụng lao động, nên có thể giải phóng mọi năng lực nội sinh để sáng tạo các sản phẩm văn hóa có giá trị. Doanh nghiệp khu vực tư nhân nước ngoài có nhiều lợi thế không chỉ về vốn, mà cả nhân lực, khoa học - công nghệ cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, chuỗi sản phẩm du lịch, ngành công nghiệp thực phẩm đáp ứng nhu cầu của cư dân có yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo.
Nguồn lực doanh nghiệp khu vực tư nhân có hạn chế là chỉ chu chuyển, phân bổ đến chỗ có khả năng sinh lời, không đầu tư vào hàng hóa và dịch vụ công cộng, dù đây là những hàng hóa rất cần thiết cho phát triển xã hội. Thậm chí, vì tối đa hóa lợi nhuận, không ít doanh nghiệp khu vực tư nhân sẵn sàng hy sinh lợi ích công cộng, như gây ô nhiễm môi trường, sản xuất các sản phẩm độc hại ảnh hưởng đến an ninh văn hóa, an toàn xã hội, đi ngược với thuần phong mỹ tục, đạo đức, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Nguồn lực doanh nghiệp vận hành theo thị trường, thường có xu hướng độc quyền, triệt tiêu tự do cạnh tranh, làm suy giảm hiệu lực của cơ chế thị trường. Doanh nghiệp khu vực tư nhân nước ngoài hoạt động trên nền tảng xuyên biên giới thu được lợi nhuận lớn từ thị trường số của Việt Nam, nhưng lại thường trốn thuế. Phát triển văn hóa luôn cần đến các doanh nghiệp không chỉ có nguồn vốn, mà cả trách nhiệm xã hội, hiểu biết văn hóa, đam mê nghề nghiệp để kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ văn hóa một cách có đạo đức, kết hợp giữa nguyên tắc thị trường và định hướng giá trị. Thiếu hụt của doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa ở nước ta hiện nay không chỉ nằm ở nguồn lực vốn, công nghệ, mà quan trọng hơn là thiếu những người vừa có tư duy doanh nghiệp, vừa có tố chất kinh doanh lĩnh vực văn hóa (đam mê văn hóa, nghệ thuật, hiểu nghề, có tri thức về bản sắc văn hóa dân tộc, biết định hướng giá trị văn hóa)... Thiếu vốn có thể vay, thiếu công nghệ có thể nhập khẩu, thiếu tư duy doanh nghiệp có thể thuê, nhưng thiếu hiểu biết văn hóa, đam mê nghề nghiệp thì rất khó tạo sự thống nhất ý chí trong phát triển và không thể sản xuất các sản phẩm công nghiệp văn hóa có sức sống lâu bền, sức cạnh tranh trên thị trường(1). Vì vậy, vai trò của nguồn lực doanh nghiệp đối với phát triển văn hóa phải được nhìn nhận rất toàn diện, nhất là nguồn nhân lực quản lý, quản trị hoạt động doanh nghiệp, nguồn lực công nghệ gắn với chuỗi sản phẩm và dịch vụ văn hóa mang tính đặc thù của thị trường văn hóa.
Nguồn lực xã hội có thể thuộc sở hữu của cá nhân, gia đình, cộng đồng, tổ chức xã hội; hoặc nguồn lực của doanh nghiệp khu vực tư nhân có thể dịch chuyển sang hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận; hoặc nguồn lực của nhà nước, của toàn dân giao quyền, trao quyền cho cộng đồng sử dụng, quản lý. Nguồn lực xã hội rất phong phú, cả nguồn lực đất đai và tài sản trên đất, tài sản cá nhân, tài chính gia đình, nhân lực, tri thức địa phương. Khai thác nguồn lực các tổ chức phi chính phủ quốc tế cũng là một hướng góp phần thúc đẩy gia tăng nguồn lực phục vụ bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa. Nguồn lực xã hội có khả năng đưa vào phát triển văn hóa như: (i) Đất đai các gia đình hiến tặng xây dựng các công trình phúc lợi văn hóa; (ii) Di sản văn hóa do gia đình, dòng họ, cộng đồng khai thác, sử dụng cho các mục đích phúc lợi văn hóa cộng đồng, như nhà thờ, từ đường, đền chùa, đình miếu, rừng thiêng,... (iii) Các di sản văn hóa phi vật thể, như kiến trúc, hội họa, âm nhạc của cộng đồng, của các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo; (iv) Tài chính các gia đình, tổ chức, doanh nghiệp, người dân hiến tặng xây dựng công trình tín ngưỡng, tôn giáo (nhà thờ, chùa, đền, đình, miếu), nhà văn hóa, tượng đài...; (v) Tri thức tộc người, tri thức địa phương gắn với quản lý kinh tế, xã hội mang tính sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng; (vi) Nhân lực xã hội bao gồm trí thức và nghệ nhân hoạt động trong khu vực phi lợi nhuận, công tác xã hội; (vii) Tài chính của các tổ chức phi lợi nhuận.
Nguồn lực xã hội hình thành theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản của các chủ thể xã hội, như gia đình, dòng họ, tổ chức cộng đồng, tổ chức phi lợi nhuận. Nguồn lực xã hội không có mục đích sinh lời, hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận, hướng vào giữ gìn, phát huy giá trị tốt đẹp phục vụ cộng đồng(2). Nguồn lực xã hội có ưu điểm: (i) Huy động bằng sự tham gia tự nguyện, tự giác của người đóng góp nên thường ít bị ràng buộc bởi các thủ tục tài chính ngặt nghèo, như nguồn lực nhà nước; (ii) Tự quản và tự kiểm soát của các tổ chức cộng đồng nên nguồn lực đến đúng, trúng, chính xác đối tượng sử dụng, hạn chế thất thoát, lãng phí; (iii) Do các tổ chức xã hội tự quản nên có thể nhanh chóng giải ngân khi đưa vào đầu tư, ít gặp các rào cản làm chậm tiến độ, thời gian; (iv) Đây là tài sản của dân, do dân trực tiếp đóng góp, quản lý nên sử dụng có giám sát chặt chẽ bằng cơ chế dân chủ cộng đồng.
Tuy nhiên, nguồn lực xã hội cũng có giới hạn như: (i) Phân tán, khó tập trung để đầu tư các công trình lớn, chủ yếu xây dựng, phát triển các công trình nhỏ ở cộng đồng vi mô; (ii) Doanh nghiệp khu vực tư nhân vẫn thường lợi dụng khu vực phi lợi nhuận để trốn thuế; (iii) Các đơn vị hoạt động phi lợi nhuận được thiết lập trong doanh nghiệp còn thiếu minh bạch, chưa rõ với hoạt động kinh doanh chung; (iv) Quản lý nguồn tài chính xã hội nhiều nơi còn lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ, dễ bị một nhóm người lợi dụng, thao túng, trục lợi, nhà nước khó can thiệp; (v) Các tổ chức xã hội, nhất là tổ chức phi chính phủ nước ngoài khi tài trợ nhiều khi đan cài các động cơ chính trị, thúc đẩy đa nguyên văn hóa, cổ xúy cho chủ nghĩa địa phương; (vi) Nguồn lực các tổ chức tôn giáo trong một số trường hợp bị các chức sắc tôn giáo, các lực lượng chống đối lợi dụng phục vụ cho mưu đồ chính trị, gây ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; (vii) Tài sản thuộc sở hữu cộng đồng, dễ bị đánh cắp nếu thiếu khung pháp lý và cơ chế bảo vệ.
Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy kết nối, tối ưu hóa phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực nhà nước, nguồn lực doanh nghiệp và nguồn lực xã hội phục vụ phát triển văn hóa
Một là, đổi mới cơ chế phân bổ, sử dụng hiệu quả tài chính công phục vụ phát triển văn hóa theo hướng vận dụng nguyên tắc cạnh tranh, tăng cường tính tập trung, bảo đảm “đầu tư công dẫn dắt đầu tư”, “đầu tư công lôi kéo đầu tư xã hội”.
Phát triển văn hóa mang lại phúc lợi chung cho người dân, bảo đảm nền tảng tinh thần cho phát triển bền vững đất nước, thúc đẩy các giá trị công, nên trước hết cần xác định đầy đủ trách nhiệm của Nhà nước gắn với đầu tư ngân sách. Cần khắc phục quan niệm coi văn hóa chỉ thụ hưởng một chiều thành quả tăng trưởng kinh tế, chi tiêu cho văn hóa thuần túy là chi tiêu cho phúc lợi của người dân. Đổi mới nhận thức bắt đầu từ quan niệm đầu tư cho văn hóa chính là đầu tư cho phát triển, không chỉ tạo lập nền tảng tinh thần, đạo đức, tư tưởng cho phát triển xã hội, mà còn góp phần tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Nâng chi tiêu cho văn hóa lên 2% tổng chi ngân sách, phù hợp với đà tăng trưởng và quy mô của nền kinh tế. Đầu tư công cho văn hóa phải đạt ngưỡng, mang tính tập trung, mới đủ sức dẫn dắt đầu tư tư nhân và lôi kéo đầu tư xã hội. Vì vậy, đầu tư công cho văn hóa phải khắc phục được tình trạng phân tán, hiệu quả chưa cao, nhất là đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, thiết chế văn hóa, đào tạo nhân lực văn hóa, xây dựng các sản phẩm văn hóa đặc sắc mang thương hiệu quốc gia.
Điều chỉnh cơ cấu đầu tư công theo hướng tập trung cho hiện đại hóa hạ tầng, thiết chế văn hóa chủ đạo, như hạ tầng số, nhà hát, bảo tàng, thư viện, công viên, các di tích lịch sử - văn hóa hạng đặc biệt, cấp quốc gia. Kết hợp hợp lý giữa đầu tư cho các đơn vị sự nghiệp công lập với đầu tư dưới hình thức hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng, nhất là trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có năng lực hội nhập quốc tế (như đầu tư đào tạo đạo diễn điện ảnh, nghệ sĩ, nghệ nhân...). Coi trọng đầu tư vào nhân tố con người, chuyển dịch các khoản chi sự nghiệp có tính đầu tư sang phát triển các năng lực chuyên môn, phát triển con người (mua sắm thiết bị phục vụ nâng cao trình độ chuyên môn, học tập nước ngoài, hội thảo, rèn luyện kỹ năng,...).
Đổi mới cơ chế đầu tư theo hướng chuyển mạnh sang cơ chế đặt hàng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, không phân biệt khu vực công hay khu vực tư, kiến tạo thị trường cho các sản phẩm và dịch vụ văn hóa công cộng. Áp dụng các mô hình “đầu tư công, quản trị tư, vận hành tư”(3) đối với các thiết chế văn hóa đòi hỏi quản trị chuyên nghiệp, hiện đại. Áp dụng hình thức đấu thầu các gói dịch vụ sử dụng ngân sách nhà nước nhằm nâng cao tính cạnh tranh, hiệu quả sử dụng tài chính ngân sách, bảo đảm quyền bình đẳng cơ hội tiếp cận của các đơn vị sự nghiệp công và tư, doanh nghiệp và tổ chức cộng đồng(4).
Hai là, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai gắn với tài nguyên, di sản văn hóa trên mặt đất, trong lòng đất thông qua gắn kết trách nhiệm nhà nước, doanh nghiệp và xã hội.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, giao quyền sử dụng cho các chủ thể trong xã hội. Phát triển văn hóa luôn cần đến nguồn lực đất đai, bao gồm cả đất xây dựng, phát triển các thiết chế, công trình văn hóa và quản lý, khai thác, sử dụng di sản văn hóa gắn với bề mặt đất.
Nhà nước quy hoạch đất đai bảo đảm cho phát triển các không gian công cộng, thiết chế văn hóa. Thiết chế văn hóa bao giờ cũng ở vị trí trung tâm các đô thị, đất có giá trị cao, cần quy hoạch quỹ đất phù hợp. Hạn chế việc di dời các thiết chế văn hóa từ các trung tâm đô thị, có vị trí đẹp, để lấy đất phát triển các khu thương mại - dịch vụ. Phát triển các khu công nghiệp, đô thị mới phải tính toán đầy đủ quy hoạch đất cho xây dựng thiết chế văn hóa.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm quyền tiếp cận, sử dụng công bằng của mọi chủ thể (nhà nước, doanh nghiệp và xã hội) đối với đất xây dựng các công trình văn hóa. Có quy định rõ ràng về chế độ miễn thuế sử dụng đất, ưu tiên cho các nhà đầu tư xây dựng, phát triển các thiết chế văn hóa, mở mang dịch vụ văn hóa, như trường học, bảo tàng, thư viện, không gian văn hóa,... hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận.
Đất công sản Nhà nước giao các đơn vị sự nghiệp công lập quản lý, khai thác, sử dụng cần rà soát, đánh giá, chỉnh đốn kỷ cương. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hoặc đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trên lĩnh vực văn hóa phải tính toán đầy đủ giá trị đất theo thị trường. Đất công sản do các đơn vị sự nghiệp công lập quản lý trên lĩnh vực văn hóa phải sử dụng đúng mục đích, kiên quyết dẹp bỏ tình trạng lấn chiếm, sử dụng không gian công cộng, thiết chế văn hóa cho mục đích thương mại.
Hoàn thiện các quy định về trao quyền cho cộng đồng quản lý, sử dụng đất gắn với di tích, di sản trên đất, nhất là đất rừng thiêng, đất di tích - danh thắng để vừa nâng cao trách nhiệm của cộng đồng quản lý, vừa khai thác có hiệu quả giá trị di sản văn hóa phục vụ phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch tâm linh.
Sửa đổi các quy định tôn vinh cá nhân, gia đình, dòng họ, gia đình hiến tặng đất để xây dựng các công trình phúc lợi cộng đồng, thiết chế văn hóa, như công viên, đường sá, trường học, bảo tàng, thư viện, nhà văn hóa. Có thể chấp nhận đặt tên người hiến tặng tài sản xây dựng các con đường, không gian văn hóa, quỹ văn hóa (tất nhiên không có vấn đề về lịch sử chính trị).
Ba là, đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực văn hóa.
Cần tiến hành giao quyền tự chủ rộng rãi cho các đơn vị sự nghiệp công lập có khả năng cung ứng sản phẩm và dịch vụ văn hóa theo cơ chế thị trường, trước hết là các sản phẩm ngành công nghiệp văn hóa. Các đơn vị cung ứng sản phẩm và dịch vụ văn hóa thuần công phải lập thành danh mục rõ ràng để xác định trách nhiệm Nhà nước đầu tư, nhất là các dịch vụ văn hóa bảo vệ nền tảng tư tưởng, an ninh văn hóa, giá trị đạo đức, nghệ thuật truyền thống... mà thị trường không cung ứng.
Thực hiện cổ phần hóa, chuyển đổi mô hình hoạt động các đơn vị sự nghiệp công lập cung ứng các sản phẩm và dịch vụ công nghiệp văn hóa sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp, bảo đảm tự chủ tài chính, tự chủ phương án hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, xác định trách nhiệm của Nhà nước trong đào tạo nguồn nhân lực, đặt hàng các sản phẩm để kiến tạo thị trường, tham gia xúc tiến quảng bá các sản phẩm và dịch vụ văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Các đơn vị sự nghiệp văn hóa cung ứng dịch vụ thuần công cũng chuyển sang hoạt động theo cơ chế đặt hàng có cạnh tranh gắn với những sản phẩm cụ thể, thay vì Nhà nước bao cấp theo cách truyền thống dễ gây nên trì trệ, dựa dẫm, thiếu động lực đổi mới sáng tạo. Nhà nước có nhiệm vụ hỗ trợ tài chính cho xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị hiện đại, nâng cao nghiệp vụ, tay nghề, đào tạo nguồn nhân lực, chi trả lương cơ bản. Sản phẩm “đầu ra” phải đặt hàng với tiêu chí cụ thể, có tính cạnh tranh giữa các đơn vị trong khu vực công và giữa khu vực công với khu vực tư, nhất là các tác phẩm nghệ thuật.
Thúc đẩy đối tác công - tư (PPP) trong phát triển sự nghiệp văn hóa. Rà soát các hạng mục, công việc có khả năng thúc đẩy đầu tư theo hình thức đối tác công - tư để đưa các chính sách thu hút hấp dẫn, nhất là phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, phát triển du lịch.
Có chính sách đào tạo, phát triển nhân lực văn hóa cho khu vực công, liên thông với khu vực tư nhân và xã hội. Ngoài đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, cần phải có chính sách với nghệ nhân, hỗ trợ bằng cơ chế đặc thù để nuôi dưỡng tài năng, bồi dưỡng, trao truyền tri thức cho thế hệ tiếp theo.
Bốn là, thu hút đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng chuỗi sản phẩm du lịch, sản phẩm thương mại mang bản sắc văn hóa Việt Nam.
Định hình danh mục các sản phẩm và dịch vụ văn hóa hấp dẫn đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để hoàn thiện cơ chế ưu đãi thu hút đầu tư.
Các lĩnh vực quảng cáo, phần mềm và trò chơi giải trí, thiết kế thời trang, điện ảnh... có dư địa lớn cho thu hút đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài, nhất là những sản phẩm hướng tới xuất khẩu. Ngành may mặc Việt Nam cần thu hút các giám đốc sáng tạo tầm quốc tế có khả năng đưa ra các thiết kế mới, hợp thị hiếu người tiêu dùng, mang lại giá trị gia tăng cao cho sản phẩm dệt - may. Ngành điện ảnh rất cần đến hợp tác chiều sâu, cả vốn, công nghệ và nhân lực chất lượng cao để có thể tạo nên các tác phẩm điện ảnh đủ năng lực hội nhập quốc tế, vươn tầm thị trường thế giới, quảng bá “sức mạnh mềm” của Việt Nam. Thiết kế các phần mềm trò chơi, giải trí điện tử gắn với thương mại điện tử luôn cần đến các khoản đầu tư lớn, đào tạo nguồn nhân lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mà khu vực tư nhân và FDI luôn có thế mạnh.
Một lĩnh vực rất mới mẻ, còn phải thí điểm, nhưng cũng hứa hẹn khả năng thu hút đầu tư nước ngoài là đua xe, đua ngựa,... cùng với xây dựng các chuỗi cung ứng mua sắm các sản phẩm hàng hóa du lịch, thể thao đua xe gắn với các nhà đầu tư chiến lược.
Phát triển du lịch dựa trên chuỗi cung ứng mang tính toàn cầu của những thương hiệu lớn, chuyên nghiệp, cần có chính sách thu hút, lôi cuốn các tập đoàn đa quốc gia vào xây dựng chuỗi khách sạn, nhà hàng, trường đua công thức 1... gắn với phát triển, quảng bá các sản phẩm du lịch đặc thù mang bản sắc Việt Nam. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, truyền thống ẩm thực, nông sản OCOP... luôn cần đến vai trò của doanh nghiệp từ đầu tư vốn, chế biến sâu, xây dựng thương hiệu, xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, quảng bá hình ảnh. Vì vậy, phải có chiến lược thu hút các nhà đầu tư chiến lược phát triển thể thao, du lịch, phát triển cụm ngành du lịch, gắn với đó là hàng loạt các dịch vụ văn hóa, giải trí đi kèm.
Hoàn thiện các chính sách thuế, đất đai có sức hấp dẫn thu hút đầu tư doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài cho phát triển công nghiệp văn hóa. Đổi mới phương thức kiểm duyệt sản phẩm công nghiệp văn hóa, tăng cường quản lý các nền tảng kỹ thuật số xuyên biên giới. Ngành văn hóa phối hợp chặt chẽ với ngành ngoại giao mở rộng xúc tiến thương mại với các nhà đầu tư chiến lược, các hãng lớn về công nghiệp văn hóa trên thế giới, như các hãng điện ảnh, khách sạn, thiết kế thời trang, thiết kế phần mềm giải trí, đua xe, đua ngựa,... tạo điều kiện cho thu hút đầu tư nước ngoài.
Năm là, khuyến khích doanh nghiệp dịch chuyển nguồn lực đầu tư phát triển các sản phẩm và dịch vụ văn hóa hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận.
Trong xu hướng khu vực phi lợi nhuận ngày càng đóng vai trò quan trọng cho phát triển văn hóa thì cần phải quy định rõ tính chất, các loại hình cung ứng dịch vụ phi lợi nhuận nói chung và dịch vụ phi lợi nhuận thuộc lĩnh vực văn hóa nói riêng, chẳng hạn như các tổ chức phi lợi nhuận (quỹ, trường học, trung tâm văn hóa) thuộc các doanh nghiệp; các tổ chức xã hội; các tổ chức cộng đồng; thiết chế văn hóa hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận (bảo tàng, thư viện, phòng tranh, không gian văn hóa, diễn đàn...).
Phát triển các dịch vụ văn hóa phi lợi nhuận có thể được tiến hành bằng nhiều biện pháp khác nhau. Đối với các quỹ, tổ chức văn hóa do doanh nghiệp tài trợ, thực hiện trách nhiệm xã hội, cần tách bạch rõ với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích của tổ chức phi lợi nhuận. Đối với các quỹ, không gian, diễn đàn, trường dạy văn hóa thiện nguyện, trung tâm bảo tồn di sản, thư viện, bảo tàng... do cá nhân lập ra, cần có quy định chặt chẽ để quản lý, tránh bị lợi dụng cho mục đích thương mại.
Mô hình quản trị các tổ chức phi lợi nhuận cung ứng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa cần được hiện đại hóa. Các tổ chức phi lợi nhuận luôn cần đến bộ phận tổ chức gây quỹ, phát triển năng lực tài chính một cách chuyên nghiệp, nhưng các khoản sinh lời phải được đầu tư trở lại phát triển sự nghiệp văn hóa, không chia cho các thành viên sáng lập. Lập hội đồng quản trị các thiết chế, quỹ văn hóa trước hết phải là những người am hiểu nghề, đam mê với văn hóa, nghệ thuật, đạo đức trong sáng. Nhà nước cần trao quyền rộng rãi cho các tổ chức xã hội trong đánh giá, thẩm định chuyên môn các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật trước khi ra mắt, phát hành rộng rãi trước công chúng.
Sáu là, khai thông, giải phóng tối đa các nguồn lực xã hội phục vụ phát triển văn hóa.
Không có loại nguồn lực nào mà tiềm năng trong xã hội lại phong phú, đa dạng như nguồn lực văn hóa, bởi nó gắn liền với với mỗi con người, gia đình, dòng họ, cộng đồng địa phương, tổ chức xã hội, gồm cả nguồn lực vật thể và nguồn lực phi vật thể.
Nguồn lực văn hóa vật thể, như di tích lịch sử - văn hóa (đền, chùa, đình, miếu, nhà rông, từ đường dòng họ,...), di tích - danh thắng, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, rừng thiêng. Các nguồn lực này có thể do nhà nước sở hữu, lưu giữ, quản lý, khai thác trong các bảo tàng; có thể do cộng đồng sở hữu, quản lý, sử dụng phục vụ cho các nhu cầu tín ngưỡng, lễ hội dân gian, dòng họ gắn với không gian diễn xướng cụ thể; có thể do tư nhân nắm giữ trong các gia đình. Nguồn lực văn hóa phi vật thể, như tín ngưỡng, lễ hội, phong tục, tập quán, văn hóa dân gian, nghệ thuật dân gian, tri thức địa phương, các giá trị kiến trúc, âm nhạc, hội họa dân gian... đều gắn liền với vai trò quản lý, khai thác, sử dụng của các tổ chức cộng đồng, tổ chức xã hội, vai trò của nghệ nhân dân gian, người có uy tín tại cộng đồng.
Khai thác, phát huy nguồn lực này đòi hỏi phải xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, bảo tồn “tĩnh” và bảo tồn “động” trong đời sống cộng đồng. Trong đó, việc bảo tồn gắn với khai thác phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục lịch sử, du lịch cần đặc biệt được coi trọng. Cần chú ý áp dụng nguyên tắc quản trị doanh nghiệp để khai thác, phát huy có hiệu quả các nguồn lực văn hóa phục vụ du lịch mà Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh là một ví dụ tiêu biểu(5).
Cần phân định vai trò của Nhà nước, vai trò doanh nghiệp và vai trò cộng đồng trong phát huy nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa. Tuyệt đối hóa vai trò của Nhà nước sẽ làm xơ cứng, không khơi dậy được vai trò, sức mạnh của doanh nghiệp và cộng đồng trong huy động, sử dụng nguồn lực văn hóa. Tuyệt đối hóa vai trò của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy thương mại hóa các giá trị văn hóa mà trong nhiều trường hợp làm mất đi định hướng giá trị, không phản ánh đúng đắn, đầy đủ chức năng của văn hóa. Tuyệt đối hóa vai trò của xã hội sẽ làm cho nguồn lực văn hóa chỉ đóng khung trong giới hạn cộng đồng, không được kết nối, phát huy bằng sức mạnh cơ chế thị trường để nâng cao giá trị, vốn hóa các tài nguyên văn hóa phục vụ phát triển kinh tế.
Vai trò Nhà nước thể hiện ở việc kiến tạo thể chế, quy hoạch, đầu tư công dẫn dắt cho đầu tư tư nhân và lôi cuốn đầu tư xã hội phát triển văn hóa. Cần hoàn thiện khung thể chế, luật pháp bảo vệ bản quyền tác giả, bảo vệ quyền sở hữu cộng đồng đối với tri thức địa phương, ngăn chặn tình trạng bị đánh cắp(6). Doanh nghiệp tham gia phát triển văn hóa nhưng không phải lấn sân, chèn ép không gian các tổ chức cộng đồng, mà kết nối, hợp tác, hướng dẫn cộng đồng tự quản các di tích, danh thắng, phân bổ lợi ích hài hòa giữa doanh nghiệp và cộng đồng(7). Các tổ chức cộng đồng cần áp dụng nguyên tắc thị trường để quảng bá, phát huy, vốn hóa các tài nguyên văn hóa như giá trị tri thức địa phương trong các nông sản, truyền thống ẩm thực, sản phẩm thủ công truyền thống mang giá trị khác biệt (như sản phẩm OCOP), khai thác giá trị rừng thiêng, không gian sinh thái, di tích - cảnh quan phục vụ phát triển du lịch. Chính quyền không can thiệp sâu vào hoạt động quản trị của doanh nghiệp và cộng đồng, mà chỉ ban hành quy định hướng dẫn và kiểm tra, giám sát thực hiện đúng quy định.
Một số đề xuất, kiến nghị
Một là, rà soát, đổi mới cách thức phân bổ, sử dụng nguồn tài chính công đầu tư cho phát triển văn hóa theo hướng: Xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia phát triển văn hóa theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (đến năm 2030 và giai đoạn 2021 - 2040), gắn với xác định rõ sản phẩm và dịch vụ văn hóa cụ thể; đầu tư tập trung nguồn lực xây dựng các thiết chế văn hóa hiện đại (nhà hát, bảo tàng, thư viện, sân vận động thể thao, công viên), tạo nên điểm nhấn ở các đô thị lớn, xứng tầm với vị thế quốc gia tầm trung; đầu tư vào phát triển các sản phẩm văn hóa đặc sắc cần có đột phá, nhất là tác phẩm văn hóa, nghệ thuật; cơ cấu lại các khoản đầu tư có tính sự nghiệp hướng vào nhân tố con người, thay vì cắt chuyển sang đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Đầu tư công tập trung, đạt ngưỡng thì mới thực hiện được vai trò “đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”, “đầu tư công lôi kéo đầu tư xã hội”.
Hai là, định hình chiến lược phát triển nguồn nhân lực văn hóa với các đối tượng cụ thể: (i) Văn nghệ sĩ, nghệ nhân - những người sáng tạo nên tác phẩm văn hóa, nghệ thuật đặc sắc; (ii) Giám đốc sáng tạo (thiết kế thời trang), lập trình viên phần mềm công nghiệp giải trí - những người kiến tạo nên giá trị các sản phẩm công nghiệp văn hóa; (iii) Các nhà lãnh đạo, quản trị công có tầm vóc văn hóa - những người quyết định đến thiết kế đường lối, chiến lược phát triển đất nước dựa trên nền tảng và tầm nhìn văn hóa. Mỗi loại nguồn nhân lực nêu trên cần được đầu tư đúng tầm, có chính sách đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, gắn với xác định rõ trách nhiệm Nhà nước, thị trường và xã hội. Chú ý năng lực hội nhập quốc tế đối với nguồn nhân lực lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.
Ba là, hoàn thiện thể chế, quy định, chế tài bảo vệ lợi ích công cộng, trong đó có các không gian công cộng, thiết chế văn hóa công cộng nhằm bảo đảm phúc lợi văn hóa cho người dân, nhất là ở địa bàn đô thị. Định hình một cơ chế, có chủ thể rõ ràng khiếu kiện, bảo vệ lợi ích công cộng trong điều kiện kinh tế thị trường, nhằm khôi phục các không gian văn hóa đã bị lấn chiếm, bảo vệ các không gian công đứng trước thách thức các lực lượng thị trường chiếm dụng, thu hẹp, giữ nghiêm kỷ luật và chỉnh đốn quản lý quy hoạch phát triển các không gian công cộng.
Bốn là, có cơ chế bảo vệ quyền sở hữu cộng đồng đối với tri thức địa phương, như tri thức địa phương về chăm sóc sức khỏe, các bài thuốc gia truyền; các giống cây trồng, vật nuôi có nguồn gien bản địa; quy trình và công nghệ truyền thống về nuôi, trồng cây, con bản địa; phương pháp bảo quản và chế biến các hàng thủ công mỹ nghệ,... gắn với xuất xứ, chỉ dẫn địa lý, để chúng không bị đánh cắp quyền sở hữu trí tuệ cộng đồng trong quá trình tham gia hội nhập quốc tế. Trong quá trình phát triển các sản phẩm OCOP cùng với đăng ký thương hiệu, xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn địa lý là phải được đăng ký quyền sở hữu trí tuệ cộng đồng.
Năm là, định hình cơ chế phân phối hài hòa lợi ích của các chủ thể nắm các khâu khác nhau của chuỗi giá trị văn hóa gắn với phát triển cụm ngành du lịch. Các yếu tố đầu vào phát triển du lịch gồm: nguồn tài nguyên, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nguồn kiến thức, nguồn vốn... phải theo nguyên tắc phân phối lợi ích theo chủ sở hữu đóng góp. Nhà nước đầu tư kết cấu hạ tầng, sở hữu tài nguyên đất đai, nguồn nhân lực khu vực công... nên được thu thuế hoặc phí, lệ phí để bù đắp các chi phí; doanh nghiệp đầu tư vào phát triển nhân lực (doanh nghiệp), bỏ vốn đầu tư nhà hàng, khách sạn, hoạt động lữ hành,... được thu lợi nhuận với chi phí bỏ ra; cộng đồng có sở hữu tài nguyên văn hóa, tri thức địa phương, nhân lực xã hội... cũng phải được hưởng lợi với đóng góp của mình. Phân phối lợi ích gắn liền với từng chủ thể Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng tổ chức, vận hành hoạt động du lịch(8); không chỉ xem xét trong một di tích - danh thắng cụ thể, mà phải đặt trong tổng thể cụm ngành mang lại giá trị gia tăng cho từng di tích - danh thắng đó./.
-------------------------
(1) Bài học cổ phần hóa Hãng phim truyện Việt Nam là một ví dụ cho trường hợp này.
(2) Phi lợi nhuận không có nghĩa là loại trừ hoạt động kinh doanh sinh lời, quan trọng là các khoản sinh lời không chia cho chủ sở hữu, mà tái đầu tư vào phát triển sự nghiệp văn hóa.
(3) Nhà nước có thể đầu tư xây dựng các nhà hát hiện đại, nhưng ủy quyền cho tư nhân quản trị, khai thác, vận hành.
(4) Như đấu thầu cạnh tranh thiết kế các khu di tích lịch sử - văn hóa phục vụ cho du lịch.
(5) Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh là đơn vị sự nghiệp tự chủ toàn phần, hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp, có chiến lược khách hàng, chiến lược sản phẩm, phát triển thị trường,... gắn với định hình các bộ phận tiếp thị,...
(6) Các nguồn gen bản địa, thảo dược quý hiếm, bài thuốc gia truyền bị nước ngoài đánh cắp mà không có cơ chế bảo vệ.
(7) Ở nhiều quốc gia, doanh nghiệp du lịch chỉ làm nhiệm vụ kinh doanh lữ hành và lưu trú, ăn uống; còn cộng đồng địa phương mới được quyền tổ chức tham quan, tổ chức bán hàng lưu niệm cho khách du lịch trong khu di tích. (8) Như doanh nghiệp nắm giữ các khâu: dịch vụ lưu trú và ăn uống, dịch vụ lữ hành, rạp chiếu phim, truyền thông sản phẩm...; Nhà nước nắm các khâu: phương tiện truyền thông, an ninh và dịch vụ bảo vệ, thông tin, liên lạc, internet, dịch vụ tài chính - ngân hàng; còn cộng đồng nắm giữ các khâu: đưa khách tham quan trong khu di tích, tổ chức thực hành lễ hội...
(8) Như doanh nghiệp nắm giữ các khâu: dịch vụ lưu trú và ăn uống, dịch vụ lữ hành, rạp chiếu phim, truyền thông sản phẩm...; Nhà nước nắm các khâu: phương tiện truyền thông, an ninh và dịch vụ bảo vệ, thông tin, liên lạc, internet, dịch vụ tài chính - ngân hàng; còn cộng đồng nắm giữ các khâu: đưa khách tham quan trong khu di tích, tổ chức thực hành lễ hội...